1764.02
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
581 bài thơ, 4 bài dịch
25 bình luận
71 người thích

Thơ đọc nhiều nhất

Thơ thích nhất

Thơ mới nhất

Tác giả cùng thời kỳ

- Phạm Hổ (87 bài)
- Trần Dần (77 bài)
- Chính Hữu (27 bài)
- Phan Vũ (4 bài)
- Thích Nhất Hạnh (99 bài)
Tạo ngày 27/08/2005 00:32 bởi Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 07/04/2007 21:08 bởi Vanachi
Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998) sinh tại Thanh Châu, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, con thứ của ông bà Bùi Thuyên và Huỳnh Thị Kiều. Ông được văn giới, không phân biệt không gian thời gian, yêu mến trọng vọng. Những tác phẩm đầu của ông được in trong sách giáo khoa năm 1957, như Một vài nhận xét về Bà huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm,... nhưng tiếng tăm ông nổi bật từ tập thơ Lá hoa cồn (1963). Ông là một người tự học và học rất trễ, tuy nhiên khả năng tinh thông nhiều ngôn ngữ của ông, kể cả những ngôn ngữ khó như chữ Hán và tiếng Đức, làm kinh ngạc mọi người trong văn giới.

Những cuốn sách đầu của ông là sách giáo khoa in năm 1957, Bùi Giáng đã là một tên tuổi quá quen thuộc với đông đảo bạn đọc. Ông thường tự nhận là “trung niên thi sĩ” cùng hàng…

 

  1. Ai đi tu
    7
  2. Anh đi về giữa
  3. Anh điên
  4. Anh em
  5. Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
  6. Anh sực nhớ
  7. Anh và Em vào rừng
  8. Anh về Bình Dương
  9. Áo xanh
  10. Ăn mặc nâu sồng
  11. Ba cõi
  12. Bà hiệu trưởng bước đi đệ nhất
  13. Bài thơ
  14. Bao giờ
  15. Bảo rằng
  16. Bất ngờ
  17. Bây giờ (I)
  18. Bây giờ (II)
  19. Bây giờ còn lại
  20. Bấy thân
  21. Bé con ơi
  22. Bên miền
  23. Bên quán cà phê
  24. Biển nào
  25. Biến thể do rượu mà ra
  26. Biểu tượng
  27. Bỏ hai chân
  28. Bờ lúa
  29. Bờ mây
  30. Bờ nước cũ
  31. Bờ tồn sinh (I)
  32. Bờ tồn sinh (II)
  33. Bờ trần gian
  34. Bờ xuân
  35. Buổi hội
  36. Buồn đã nhiều
  37. Buồn sầu
  38. Buồn vui
  39. Bữa hôm nay
  40. Bữa nay
  41. Bữa nay ruộng nhớ
  42. Bữa trước
  43. Ca dao (I)
  44. Ca dao (II)
  45. Ca dao (III)
  46. Cái gì ẩn dưới
  47. Cảm đề La porte étroite - Gide tặng Sophocle
  48. Cảm đề La porte étroite - Homère tặng Gide
  49. Cảm đề La porte étroite - Thu Juliette
  50. Cảm đề La porte étroite - Xuân Alissa
  51. Cảm ơn
  52. Cây chanh
  53. Cây cỏ dậy thì
  54. Chà và ca
  55. Chào em (II)
  56. Chào em (III)
  57. Chào em (IV)
  58. Chào em thật sự
  59. Chào em vô tận
  60. Chào mừng
  61. Chào Nguyên Xuân
  62. Chào thu Lục Tỉnh
  63. Chạy đi em
  64. Chân đi
  65. Chẻ hai
  66. Chết chơi
  67. Chị em
  68. Chỉ nhìn thấy
  69. Chia
    1
  70. Chia màu
  71. Chiêm bao
  72. Chiều
  73. Chiều chiều (I)
  74. Chiều chiều (II)
  75. Chiều chiều (III)
  76. Chiều đông
  77. Chiều hôm phố thị
  78. Chiều nay (I)
  79. Chiều nay (II)
  80. Chiều nay (III)
  81. Chiều Sàigon
  82. Chiều thu chiều chiều
  83. Chiều vàng tái sinh
  84. Chim hót
  85. Chim hót sáng nay
  86. Cho điểm
  87. Cho trời
  88. Chỗ này
  89. Chuyện chiêm bao 01
  90. Chuyện chiêm bao 02
  91. Chuyện chiêm bao 03
  92. Chuyện chiêm bao 04
    1
  93. Chuyện chiêm bao 05
  94. Chuyện chiêm bao 06
  95. Chuyện chiêm bao 07
  96. Chuyện chiêm bao 08
  97. Chuyện chiêm bao 09
  98. Chuyện chiêm bao 10
  99. Chuyện chiêm bao 11
  100. Chuyện chiêm bao 12
    1
  101. Chuyện chiêm bao 13
  102. Chuyện chiêm bao 14
  103. Chuyện chiêm bao 15
  104. Chuyện chiêm bao 16
  105. Chuyện chiêm bao 17
  106. Chuyện chiêm bao 18
  107. Chuyện chiêm bao 19
  108. Chuyện chiêm bao 20
  109. Chuyện chiêm bao 21
  110. Chuyện chiêm bao 22
  111. Chuyện chiêm bao 23
  112. Chuyện chiêm bao 24
  113. Chuyện chiêm bao 25
  114. Chuyện chiêm bao có thật
  115. Chuyện giữa phố
  116. Chuyện tất nhiên
  117. Cỏ
  118. Cỏ hoa hồn du mục
  119. Có lẽ (I)
  120. Có lẽ (II)
  121. Còn lâu
  122. Còn mất đi đâu
  123. Còn nguyên
  124. Con ơi
  125. Còn tiếp tục
  126. Còn xa
  127. Cọp beo và hoàng hậu
  128. Cô em Mọi nhỏ
  129. Cô nương ký ức
  130. Cố sử mai sau
  131. Cô thơ
  132. Cồn hoa lá
  133. Cồn hoa trút lá
  134. Của em
  135. Của em
  136. Của em
  137. Cũng là
  138. Cũng là như thế
  139. Dặm nghìn nhớ một
  140. Dư vang
  141. Dư vang vô lượng
  142. Dzách
  143. Đá lạnh
  144. Đàn bà cô đơn
  145. Đầu non
  146. Đèo bòng đến chết
  147. Đêm chiêm bao
  148. Đêm ký ức
  149. Đêm lễ hội
  150. Đêm Lục Tỉnh
  151. Đêm Sàigòn
  152. Đêm sang đông
  153. Đêm Tô Châu trừng hiện Diotima
  154. Đi tìm
    1
  155. Đi và về
  156. Đi về
  157. Điệu buồn cổ kính
  158. Đổ bộ ca
  159. Đổ quán
  160. Đời như
  161. Đứng lại
  162. Đười ươi sụt sùi
  163. Đường xuân bài 14
  164. Em đi (I)
  165. Em đi (II)
  166. Em đi (III)
  167. Em đi (IV)
  168. Em đi em về
  169. Em đi về giữa
  170. Em Mọi điên
  171. Em Mọi là em
  172. Em Mọi nhỏ
  173. Em Mọi ôi
  174. Em Mọi ôi hôm qua
  175. Em Mọi ơi
  176. Em nằm ngủ
  177. Em quên
  178. Em từ
  179. Em về
  180. Emily
  181. Gà gáy sáng
  182. Gái bờ mương
  183. Gái buồn
  184. Gái khóc
  185. Gặp nàng
  186. Gặp người
  187. Gẫm rằng
  188. Ghé chân
  189. Giã từ Đà Lạt
  190. Giai nhân
  191. Giai nhân ca khúc
  192. Giai nhân viếng chùa
  193. Giêng
  194. Gió bão Tây Nam
  195. Gió mùa thu 1996
  196. Gió sớm
  197. Giòng sông
  198. Giòng sông trắng
  199. Gõ cửa tồn sinh
  200. Gửi anh em
  201. Gửi chị Hằng
  202. Gửi em rốt cuộc
  203. Gửi lá đầu cây
  204. Hang rừng
  205. Hãy vô ngôn
    1
  206. Hận
  207. Hẹn ước
  208. Hiện thể
  209. Hoàng hậu
  210. Hoàng hoa
  211. Hoàng hôn vẽ bóng
  212. Hoắc nhiên ca
  213. Hỏi em
  214. Hỏi nhau
  215. Hôm qua mộng
  216. Hồng Quần
  217. Hờn trăng xứ sở
  218. Huế làm thơ
  219. Hư vô và vĩnh viễn
  220. Hương bay suối cũ
  221. Hương hoa đầu tiên
  222. Hươu
  223. Judith
  224. Kể chuyện
  225. Kể ra
  226. Kể từ đệ nhất
  227. Khép mắt
  228. Không bờ
  229. Không đề (I)
  230. Không đề (II)
  231. Không đề (III)
  232. Không đề (IV)
  233. Không đề (IV)
  234. Không đề (V)
  235. Không đề (VI)
  236. Không đủ gọi
  237. Không lời
  238. Không nói nữa
  239. Không thể nói rằng
  240. Không thuộc bài
  241. Khu vườn mai sau
  242. Kim Trọng tại sao
  243. Kính dâng Kim Cương nương tử
  244. Kính gửi cụ Nguyễn Du và thầy Hoài Thanh
  245. Kính tặng thần chết
  246. Kính thưa
  247. Kỷ niệm
  248. Kỷ niệm Biên Hoà bịnh viện
  249. Kỷ niệm chín suối
  250. Kỷ niệm Gò Công
  251. Kỷ niệm Penthésilée
  252. Kỷ niệm thiên đường
  253. Lá bay năm mới
  254. Lá cây
  255. Lá cây thu
  256. Lá cỏ lồ gồ
  257. Lá hoa cồn
  258. Lá thổi như bay
  259. Lá trút hoa cồn
  260. Láng giềng
  261. Láng giềng đệ lục
  262. Láng giềng lý tưởng
  263. Lẻ tẻ lả tả
  264. Lệ rơi
  265. Lệ vàng Penthésilée
  266. Liễu Thuý Kiều
  267. Logos
  268. Lóng cóng co ro
  269. Lời em nói
  270. Lời gái núi
  271. Lời Hàn Mặc Tử
  272. Lời người điên
  273. Lời sơn nữ
  274. Lời thôn nữ
  275. Lời thôn nữ (II)
  276. Lời xuân
  277. Lục lam hồng
  278. Lúc ngoảnh lại
  279. Luống cuống
  280. Ly bôi
  281. Ly tao (I)
  282. Ly tao (II)
  283. Ly tao (III)
  284. Mái hiên
  285. Mai sau em về
  286. Mai sau kể lại
  287. Mai sau ở chùa
  288. Máu hồng
  289. Màu thanh thiên mở
  290. Màu trăng
  291. Màu trời đó
  292. Màu xuân
  293. Mắt buồn
    6
  294. Mây
  295. Mây chiều nay
  296. Mịch phượng tung
  297. Miền Nam
  298. Mọc cỏ
  299. Mọi em em Mọi
  300. Mỗi năm
  301. Mộng
  302. Một buổi sáng
  303. Một buổi trưa (I)
  304. Một buổi trưa (II)
  305. Một cô hàng xóm
  306. Một hai năm
  307. Một hôm
  308. Một mê mười tỉnh
  309. Một mình
  310. Một nàng tiên 11
  311. Một tỉnh mười mê
  312. Một trang
  313. Mở cây cối
  314. Mở hai hàng cỏ
  315. Mở về phương ấy
  316. Mù sương Chợ Lớn
  317. Mùa phượng cũ
  318. Mười hai con mắt
  319. Na Quỳnh
  320. Nàng thơ đẹp
  321. Nàng ve chai
  322. Nausicaa
  323. Nắm
  324. Nằm khóc
  325. Nằm mộng mị
  326. Nắng buồn
  327. Nắng Sài Gòn
  328. Ngày mai anh chết
  329. Ngày nay ngày mai
    1
  330. Ngày tản cư
  331. Ngập ngừng 1
  332. Ngập ngừng 2
  333. Ngập ngừng 3
  334. Ngẫu nhĩ bên đường
  335. Nghe
  336. Nghìn thu
  337. Ngó thấy
  338. Ngõ về em có nhớ không
  339. Ngó ý - tơ lòng
  340. Ngoại ô (I)
  341. Ngoại ô (II)
  342. Ngoài trung
  343. Ngô đồng ban sơ
  344. Ngờ sao
  345. Ngủ dài
  346. Ngủ yên
  347. Nguyễn Du
  348. Nguyễn Huệ
  349. Ngựa về
  350. Người con gái mặc quần
  351. Người đi
  352. Người đi đâu
  353. Người điên
  354. Người điên uống rượu
  355. Người hải ngoại
  356. Người hải nội
  357. Người về
  358. Người xuống
  359. Người xưa
  360. Nhà ma em Mọi
  361. Nhan sắc hôm nay
  362. Nhắm mắt
  363. Nhe răng
  364. Nhiên như hà
  365. Nhìn cổ lục - Dương Giao Tiên
  366. Nhìn cổ lục - Kim Trọng
  367. Nhìn cổ lục - Thuý Kiều
  368. Nhìn thấy
  369. Nhỏ dại
  370. Nhớ Chế Mân
  371. Nhớ đi
  372. Nhớ một mình
  373. Như thế ấy
  374. Những bài thơ mất
  375. Những nhành mai
  376. Nói ra nói vào
  377. Nói với tuổi đi tu quá sớm
  378. Nói với tuổi ham ăn quà
  379. Nói với tuổi mọt sách
  380. Nói với tuổi trốn học
  381. Nỗi lòng Tô Vũ
  382. Nương nương đâu rồi
  383. Nương tử lên chùa
  384. Ồ các em
  385. Ông chào các con
  386. Ông điên
    1
  387. Ông trời
  388. Ông trời chịu thua
  389. Ở bên rìa mép
  390. Ở đời chút kỷ niệm cỏ thơm
    1
  391. Ở trong hang
  392. Ở trong rừng
  393. Phố chợ chiều
  394. Phố thu dịch chuyển
  395. Phù du diệp độn ngữ
  396. Phụng Hiến
    1
  397. Phượng
  398. Phương Hà
  399. Phương Tây
  400. Phượng thành
  401. Quán phở cô nương
  402. Quanh co
  403. Quên đi
  404. Quốc sắc
  405. Quy lai
  406. Ra đi
  407. Rằng bình minh đợi
  408. Rằng trong buổi mới
  409. Riêng mình
  410. Rong chơi
    1
  411. Ruộng Bình Dương
  412. Rừng
  413. Rượu vào
  414. Rứt bông
  415. Sa mạc phát tiết
  416. Sang mùa
  417. Sáng Sàigòn
  418. Sáng thu ký ức
  419. Sầu ca si
  420. Sầu Lục Tỉnh
  421. Sầu riêng châu chấu
  422. Sẽ đi
  423. Sinh hoạt tại quận Bình Thạnh
  424. Sóng
  425. Sông ơi
  426. Suối
  427. Sương
  428. Sương bóng
  429. Sương nắng
  430. Tạ từ
  431. Tái tặng tử thần
  432. Tam cô nương
  433. Tản Đà bị tẩu hoả nhập ma
  434. Tàn nhân
  435. Tao ngộ
  436. Tặng anh em văn nghệ sĩ
  437. Tặng bà trời
  438. Tặng bạn
  439. Tặng chị
  440. Tặng đất
  441. Tặng em
  442. Tặng em Chợ Lớn
  443. Tặng em Mọi nhỏ
  444. Tặng Khổng Khâu
  445. Tặng một khu rừng
  446. Tâm sự ông vua điên
  447. Tận cùng
  448. Thành thân
  449. Thần tiên trên núi
  450. Thấy em
  451. Theo áng mây bay
  452. Theo giòng sông
    1
  453. Thế kỷ
  454. Thích Nhiên Thiêu
  455. Thiên hương
  456. Thiên mệnh
  457. Thiên thanh là là
  458. Thiền Vu ca
  459. Thiếu nữ
  460. Thiếu phụ trở về
  461. Thím Năm Sáo
  462. Thôn làng
  463. Thôn nữ thần tiên ông điên kính chào
  464. Thống ẩm cuồng ca
  465. Thơ dại
  466. Thơ tặng
  467. Thơ tựa
  468. Thơ tựa em Mọi
  469. Thu (I)
  470. Thu (II)
  471. Thu (III)
  472. Thu (IV)
  473. Thu (V)
  474. Thu mỏng
  475. Thu ngẫu hứng
  476. Thu trang chiều
  477. Thuý
  478. Thuý Kiều
  479. Thuý xin về lúc
  480. Thư xuân
  481. Thưa
  482. Thưa cô nương
  483. Thưa em Sài Gòn
  484. Thương em
  485. Tiễn chân
  486. Tiễn người đi
  487. Tiếng cười
  488. Tiếng nói
  489. Tiếng vọng
  490. Tình điên ấy
  491. Tình thứ nhất
  492. Tình yêu (I)
  493. Tình yêu (II)
  494. Tình yêu (III)
  495. Tình yêu em Mọi (I)
  496. Tình yêu em Mọi (II)
  497. Tóc bạc thưa rằng
  498. Tô hủ tiếu
  499. Tố Như trùng lai
  500. Tôi sẽ
  501. Tờ cũ
  502. Tờ mới
  503. Trà
  504. Trăm năm (I)
  505. Trăm năm (II)
  506. Trăm năm (III)
  507. Trăm năm (IV)
  508. Trăm năm (V)
  509. Trăm năm tắm gội
    1
  510. Trẫm ghé thăm
  511. Trẫm một mình nhớ nhung hoàng hậu củatrẫm
  512. Trẫm nhớ
  513. Trẫm nhớ em
  514. Trẫm sẽ làm thơ
  515. Trận gì
  516. Trần thế bách niên
  517. Trật lất
  518. Triều Minh
  519. Trò chuyện
  520. Trong vườn
  521. Trở lại
  522. Trở về Chợ Lớn
  523. Trời bữa đó
  524. Trời che đất chở
  525. Trời đất trăng
  526. Trời hỏi
  527. Trời khóc Monroe Marilyn
    1
  528. Trời không có nhớ
  529. Trời mưa trên đầu
  530. Trời Nam Việt
  531. Trước khi
  532. Tuổi trẻ
  533. Tuôn tuôn
  534. Tuỳ em
  535. Tuỳ em thôn nữ
  536. Tuy nhiên
  537. Từ bao giờ
  538. Tử biệt sinh ly
  539. Từ giã
  540. Từ Kim Hoa tới Kim Nga
  541. Từ kỷ niệm đầu
  542. Từ vô tận tới
  543. Từng bước
  544. Từng cơn
    1
  545. Từng lúc
  546. Tượng số
  547. Tượng số hai
  548. Tượng số thiên nhiên
  549. Tỷ phú phiêu bồng
  550. Tỳ tử ngủ
  551. Tý Út vui
  552. Uống ly rượu
  553. Uống rượu
  554. Uống rượu yêu đời
  555. Uống xong về ngủ chiêm bao thấy gì
  556. Và màu xuân đó
  557. Và từ đó
  558. Vẫn là là
  559. Về buôn bán
  560. Về giữa ngọ
  561. Vì bữa đó
  562. Vì có lẽ
  563. Vì mệt mỏi nên học bài không thuộc
  564. Vì sao khùng
    2
  565. Việt Tần
  566. Vịnh ngày tái hợp
  567. Vĩnh viễn đi tu
  568. Vô đề
  569. Vỗ về
  570. Vớ vẩn
  571. Vui và buồn
  572. Vui vĩnh viễn
  573. Xẻ chia
  574. Xe đò
  575. Xuân Bình Dương
  576. Xuân thôn nữ
  577. Xuân Thu Trang Phượng
  578. Xuân xanh
  579. Xuống hang
  580. Xứ sở
  581. Yêu em Mọi nhỏ

Tuyển tập chung

Thơ dịch tác giả khác

 

 

Trang trong tổng số 3 trang (25 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 01: Người viết sách với tốc độ kinh hồn

Bùi Giáng là một con người gây kinh ngạc cho bất kỳ ai quan tâm đến ông. Làm thơ, dịch tiểu thuyết của các tác gia danh tiếng trên thế giới, viết sách nghiên cứu triết học đông tây kim cổ với những kiến thức vô cùng uyên bác… nhưng Bùi Giáng đồng thời lại còn chạy nhảy la hét ngoài đường trong bộ dạng của những con người mà ta quen gọi là điên.

Cuộc đời Bùi Giáng vì vậy luôn được bao phủ bởi vô số những giai thoại ly kỳ, những thông tin hư hư thực thực. Trước nay, có khá nhiều bài viết về ông nhưng đều rất tản mạn, hầu hết chỉ là những bài lẻ tẻ đăng báo hoặc bài của nhiều người viết trong các tuyển tập hoặc đặc san kỷ niệm Bùi Giáng. Dựa trên những tài liệu có được và những tác phẩm của ông, chúng tôi cố gắng cung cấp cho bạn đọc những thông tin tương đối có hệ thống về diện mạo của con người tài năng thuộc hạng siêu phàm nhưng rất kỳ dị này.

Từ năm 1962 trở đi, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Càng về sau càng nhiều hơn. Nói về số lượng, thì ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam trước giải phóng. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị ngàn bài. Tuy nhiên, ông hoàn toàn không phải một học giả cần mẫn, suốt ngày giam mình trong thư viện, miệt mài bên trang sách mà thậm chí còn ngược lại. Nhiều người từng gần gũi ông ngạc nhiên nói rằng họ chỉ thấy Bùi Giáng suốt ngày lang thang rong chơi nhàn nhã, bia rượu uống tràn, thế nhưng khi nhà xuất bản cần, chưa đến một ngày ông đã mang đến cả năm bảy trăm trang sách. Vậy ông viết sách vào lúc nào?

Một nhà văn gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975 kể lại chuyện viết sách của ông như sau: “Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ (Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm lúc đó) vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, đã dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản tác phẩm của Bùi Giáng trước mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm”.

Nhà văn này kể tiếp: “Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi. Bước chân vào nhà thầy Thanh Tuệ, chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi đó trước, tươi cười, ung dung trong cái phong thái của một con người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nhỏ nào của một người viết đang gió táp mưa rơi với ngàn ngàn trang sách”. Ai cũng lấy làm ngạc nhiên và cố gắng tìm hiểu nhưng không thể nào hiểu nổi. Chưa bao giờ những người gần gũi Bùi Giáng bắt gặp ông đang ngồi viết sách. Vắn tắt là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười: “Tôi cũng lấy làm kỳ. Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Đêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Nhưng ảnh viết tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Còn nói ảnh đem bản thảo tới thì nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Điều kỳ lạ là thể loại trước tác nào ảnh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh vô tả. Từ thơ đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết tới phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy”.

Có người ngạc nhiên quá, tìm cách rủ Bùi Giáng tới quán uống rượu để tìm hiểu. Nhưng chỉ tốn rượu đãi Bùi Giáng chứ chẳng khai thác được chút thông tin nào. Vặn hỏi mãi ông cũng không giải thích điều gì. Bùi Giáng chỉ cười cười, đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu và nói “vui thôi mà” trước sự ngơ ngẩn của người hỏi chuyện. Trước sau ông không hề giải thích bất cứ thắc mắc nào. Nhà văn kể trên nói tiếp: “Chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Ừ, vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi sự tìm hiểu”.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
63.67
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 02: Bài thơ lạ lùng của anh chăn bò

Bùi Giáng sinh ngày 17/12/1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ chánh qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền.

Bùi Giáng là con thứ 2 của ông Bùi Thuyên với bà Huỳnh Thị Kiền nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng. Và Bùi Giáng cũng tỏ ra thích thú với tên gọi này. Thỉnh thoảng ông cũng tự xưng cái tên thứ đó trong những câu thơ của mình. Sau này trong một bài thơ khá hài hước, Bùi Giáng viết: “-Ủa, phải anh Sáu Giáng đó không?/- Và cô có phải cô Bông năm nào?/- Anh còn nhớ rõ, ôi chao/Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ anh/Anh điên mà dzui dzẻ thập thành/Còn chúng tôi tỉnh mà đành buồn thiu”.

Mặc dù là người gặp may mắn trên đường học vấn nhưng Bùi Giáng luôn luôn phá ngang. Bùi Giáng từng viết rằng ông không có ý định học để lấy bằng cấp. Ông Bùi Văn Vịnh, một người em ruột cùng cha cùng mẹ khác của Bùi Giáng cho biết, sau khi học xong bậc tiểu học ở Trường Bảo An tại huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, Bùi Giáng được gia đình cho ra Huế tiếp tục học ở Trường Trung học Thuận Hoá. Năm 1945, khi đang học lớp Đệ Tứ thì thời thế thay đổi. Đại chiến thế giới thứ hai nổ ra, Nhật hất cẳng Pháp, rồi Cách mạng Tháng Tám thành công. Nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành Chung. Rồi Bùi Giáng lên đường đi theo kháng chiến. Năm 1950, khi có kỳ thi tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, Bùi Giáng dự thi và đậu Tú tài 2 văn chương, rồi lên đường ra Liên khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học đại học. Từ Quảng Nam thuộc Liên khu V ra tới Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV phải đi bộ theo đường mòn trên núi hơn một tháng rưỡi trời. Nhưng khi ra đến nơi, không hiểu sao ngay trong ngày khai giảng, Bùi Giáng đã quyết định bỏ học để quay ngược trở về Quảng Nam.

Bỏ học trở về nhà, ông theo chân đàn bò rong ruổi khắp các vùng đồi núi. Sau này ông có sáng tác bài thơ Nỗi lòng Tô Vũ in trong tập Mưa nguồn để kỷ niệm cho khoảng thời gian này. Một số tài liệu cho rằng Bùi Giáng đã có nhiều năm chăn dê nhưng thực ra ông chỉ trải qua 2 năm chăn bò, từ 1950 đến 1952 trên vùng rừng núi Trung Phước. Có lẽ đây là quãng đời lãng mạn nhất của ông. Và ông đã gọi quãng thời gian này là 15 năm chăn dê, như Tô Vũ ngày xưa. Nhớ lại những tháng ngày này, ông viết: “Tôi bỏ học, chẳng biết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu!”.

Bài thơ Nỗi lòng Tô Vũ dài đến 60 câu, được nhiều người thích đọc. Bài thơ với những lời thơ hết sức thiết tha, đằm thắm, ông dành cho những nàng thơ đặc biệt của ông là những con bò, đọc lên nghe rất thú vị. Trong bài thơ, ông xưng anh với những con bò mà ông đã biến chúng thành dê cho giống chuyện Tô Vũ ngày xưa và gọi chúng là em: “Chiều hôm nay bên chó vàng chễm chện/Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi”. Ông tặng các nàng thơ của ông những chiếc vòng bằng mây mà ông tự đan đủ màu sắc như người ta tặng kỷ vật cho người mình yêu: “Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm/Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu/Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh/Này đây em Hoa Cà hỡi! Chiếc nâu”. Mỗi nàng dê một chiếc vòng, ông tự tay đeo vào cổ các nàng và thủ thỉ: “Ngẩng đầu lên! Dê ơi anh thong thả/Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh/Ngẩng đầu lên! Đây lòng anh vàng đá/Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên”. Tặng xong kỷ vật cho các nàng dê rồi ông mới thề thốt: “Và giờ đây một lời thề đã thốt/Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta/Cao lời ca bê hê em cùng thốt/Hoà cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha”.

Lấy dê, thực chất là bò, làm nàng thơ quả là một chuyện xưa nay chưa có ai làm. Nhưng đáng kinh ngạc hơn nữa là ông so sánh chuyện đeo vòng mây cho dê với việc trao vòng cầu hôn cho vị hôn thê của mình: “Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ/Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi/Trao người em trăm năm lời ước thệ/Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi”. Trong lần xuất bản đầu tiên của tập Mưa nguồn, Bùi Giáng còn ghi chú rõ ý khổ thơ này là, ngày xưa khi ông cưới vợ, thì cái giây phút đeo chiếc vòng đính hôn kỳ diệu ấy không làm ông xúc động bằng bây giờ đeo vòng mây cho dê! Thật là một cảm xúc khác người. Sau này chúng ta sẽ thấy, thứ cảm xúc này không phải do ông cố nặn ra cho thành bài thơ lạ mà đó là những gì diễn ra thực tế trong tâm trí ông.

Nỗi lòng Tô Vũ là một bài thơ độc đáo bởi đối tượng cảm xúc của tác giả không phải là cảnh đẹp, là người thơ mà là những con dê. Bài thơ không giống ai đó có những đoạn thơ đẹp lạ lùng: “Em nhớ hay không hồn hoa dại cỏ/Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya/Vàng cao gót nai đầu buông hãi sợ/Gió cây rung trút lá mộng tan lìa”...


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 03: Chuyện ly kỳ của ông thầy giáo cuồng si nàng Kiều

Hai năm chăn bò có lẽ cũng quá đủ để nhà thi sĩ thả hồn mình rong ruổi theo những dặm đường du mục. Những ấn tượng sâu đậm trong thời kỳ này đã được Bùi Giáng tái hiện trong một số bài thơ mà ông sáng tác sau này.

Ngoài bài thơ độc đáo Nỗi lòng Tô Vũ, còn có bài Anh lùa bò vào đồi sim trái chín. Tuy không hay bằng Nỗi lòng Tô Vũ nhưng bài thơ này cũng thể hiện một tình yêu thiên nhiên đắm say và mãnh liệt của Bùi Giáng: “Anh nằm xuống để nhìn lên cho thoả/Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh/Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lả/Anh lim dim cho chết lịm hồn mình”, “Cây lá bốn bên song song từng lứa/Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn/Hạnh phúc trời với đất mang mang/Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ/Với người ngó ngất ngây đương nằm đó/Không biết trời đất có ngó mình không”. Quả thật là một tâm hồn quá khoáng đạt.

Tháng 5 năm 1952, Bùi Giáng bỏ lại sau lưng những đàn bò cùng “hồn hoa dại cỏ” trên những đồi sim trái chín để ra Huế thi lấy bằng tú tài tương đương. Bằng tú tài trước đây do Liên khu V thuộc Chính phủ Kháng chiến cấp, đổi lại để vào Sài Gòn là khu vực đang thuộc vùng địch tạm chiếm ghi danh theo học Đại học Văn khoa. Nhưng một lần nữa ông cũng quyết định bỏ học khi đọc danh sách các giáo sư giảng dạy ở Đại học Văn khoa vì thấy không “tâm phục khẩu phục”. Theo tác giả Thuỵ Khuê thì đây là lần cuối cùng ông bận tâm với chuyện học hành. Sau sự cố này, Bùi Giáng không bao giờ đi học nữa.

Sau khi kết thúc chuyện học hành, Bùi Giáng chuyên tâm vào việc nghiên cứu, viết sách và sáng tác thơ văn. Từ năm 1957, ông lần lượt cho ra đời một loạt sách giới thiệu về văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm... Sau đó ông bắt tay vào dịch tác phẩm văn học, giới thiệu tác gia danh tiếng của nước ngoài. Ngoài việc nghiên cứu và viết sách, Bùi Giáng còn đi dạy ở một số trường trung học. Và vì thế mới có những câu chuyện ly kỳ về việc giảng Kiều của Bùi Giáng.

Câu chuyện sau đây do một tác giả thuật lại trong một đặc san về Bùi Giáng, không nói rõ là mình chứng kiến hay giai thoại. Chuyện kể rằng, một lần nọ Bùi Giáng giảng Kiều cho các em học sinh, đến đoạn Từ Hải bị chết đứng giữa trận tiền, ông cảm thấy uất ức quá. Ông không chịu nổi việc một người anh hùng như Từ Hải mà phải bỏ thân nơi chiến trường vì bị mắc lừa. Từ bức xúc thái quá dẫn đến kích động thần kinh nên Bùi Giáng la hét dữ dội. Càng căm tức Hồ Tôn Hiến bao nhiêu thì ông càng la hét bấy nhiêu. Rồi ông khóc tức tưởi, đập bàn đá ghế, gục đầu thổn thức trên bàn giáo viên. Hết hét lại khóc, hết khóc lại hét.

Học sinh lúc đầu còn ngạc nhiên thích thú nhìn ông thầy mình thể hiện cảm xúc, nhưng sau thấy ông làm quá thì đâm ra sợ hãi. Bởi trước mặt chúng đang là một ông thầy đạo mạo bỗng nhiên trở thành một con người không còn biết gì đến chung quanh, chỉ la hét than khóc như cha chết mẹ chết. Quả thật Bùi Giáng đã biến tiết dạy của mình thành đám ma của Từ Hải, khiến từ học sinh cho đến ban giám hiệu phải một phen hết hồn. Sau sự cố “đám ma Từ Hải” đó, nhà trường đành phải mời thầy nghỉ dạy vì không dám để thầy làm các em học sinh phải thêm một phen hoảng hồn bạt vía nữa.

Cung Tích Biền cũng kể một câu chuyện tương tự nhưng kỳ dị hơn nữa. Theo Cung Tích Biền thì đây chỉ là một giai thoại, tuy nhiên căn cứ vào những gì xảy ra với Bùi Giáng trước nay thì chúng ta có thể tin được đó là câu chuyện có thật. Câu chuyện xảy ra vào khoảng đầu thập niên sáu mươi. Bùi Giáng đi dạy môn Việt văn cho một trường trung học ở một vùng tỉnh lỵ nọ. Hiển nhiên dạy Việt văn thì phải đến lúc ông đụng đến Truyện Kiều và Nguyễn Du. Và chuyện gì đến phải đến. Trong một giờ Việt văn, khi giảng đến đoạn nàng Kiều phải bán mình chuộc cha để hồng trần lưu lạc, Bùi Giáng đã bật khóc oà, khóc tức tưởi, khóc nức nở ngay giữa lớp học. Có lẽ nước mắt cũng không làm ông nguôi bớt nỗi cảm thương người con gái tài hoa bạc mệnh Thuý Kiều. Vì thế ông vừa khóc vừa nhảy phóc qua cửa sổ lớp học, chạy bộ ra bến xe rồi đón xe đò về Sài Gòn tức thì. Học trò nam nữ trong lớp thì cứ ngồi chờ mãi, tưởng thầy đi rửa mặt cho sạch nước mắt để dạy tiếp hoặc đi đâu đó một lát rồi sẽ trở lại, bởi vì trên bàn thầy vẫn còn sách vở, bao thuốc lá. Nhưng hết tiết học cũng không thấy thầy trở lại. Ngày hôm sau cũng không thấy thầy trở lại. Cả tuần sau thầy cũng không quay lại. Bởi vì thầy đã quyết định bỏ lớp bỏ trường, bỏ luôn cả vùng đất tỉnh lỵ ấy đến nhiều năm sau. Hỏi thầy nguyên nhân vì sao thì thầy ngậm ngùi nói “mần răng mà trở lại nơi em Kiều đã một lần hy sinh cho cái trò chơi nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn” ấy.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 04: Cuộc đấu tranh bảo vệ nàng Kiều và tình yêu loài vật

Đến Sài Gòn được ít lâu, Bùi Giáng bắt tay vào việc viết sách. Nhưng những cuốn sách đầu tiên Bùi Giáng viết ra, vì chưa có “thương hiệu” nên dĩ nhiên chưa có nhà xuất bản nào chịu bỏ tiền ra in, do vậy ông phải tự lo.

Nhưng với một người vừa chân ướt chân ráo đi lập nghiệp như ông, làm sao có tiền để in sách. Vì vậy, ông phải xoay xở bằng nhiều cách. Một số người cho rằng Bùi Giáng đã nhờ người bà con đang làm ăn phát đạt lúc đó là bác sĩ Bùi Kiến Tín cho mượn tiền để in sách. Nhưng những người thân cận với Bùi Giáng cho biết ông đã về quê bán tất cả ruộng vườn được thừa hưởng ở Quảng Nam để lấy tiền in sách. Theo chúng tôi, chi tiết này là chính xác, vì nó đúng với bản chất con người Bùi Giáng.

Khởi đầu, Bùi Giáng tập trung vào việc nghiên cứu Truyện Kiều. Đây là tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh mẽ với ông trong thời kỳ còn học trung học. Năm Bùi Giáng mười sáu tuổi, đọc những cuốn sách của Nguyễn Bách Khoa, ông đã cảm thấy bức xúc vì những lời Nguyễn Bách Khoa đả phá Truyện Kiều quá nặng nề.

Lúc đó, không khí tranh luận về Truyện Kiều khá sôi nổi. Bùi Giáng đã hăng hái bước vào cuộc. Cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện Phan Trần do Tân Việt xuất bản vào năm 1957 có những bài viết rất hay về Truyện Kiều. Cùng với một vài tác giả khác, ông chống lại những quan điểm cho rằng Truyện Kiều là một tác phẩm phản đạo đức, không mang tính nhân bản. Ông bênh vực quyết liệt cho nàng Kiều. Lúc này, tác giả Nguyễn Sĩ Tế vừa tái bản tập sách Luận đề về Nguyễn Du, trong đó phê phán nhân vật Kiều nhu nhược, lẩn thẩn, ham mê vật chất... Bùi Giáng bèn “ra tay nghĩa hiệp” bênh vực giai nhân. Ông đối thoại thẳng thắn với Nguyễn Sĩ Tế, cho rằng Nguyễn Sĩ Tế hẹp hòi trong cách nghĩ: “Sao ở mọi chốn khác ông Tế tỏ ra chu đáo là thế, mà riêng đây, ông nỡ cứ hẹp hòi. Mười năm trước ông Nguyễn Bách Khoa từng lớn tiếng: hoàn cảnh xã hội chi phối con người. Nhưng khi đem cái nguyên tắc ấy áp dụng trong việc phê phán nhân vật, bao lần ông đã không chịu xét cái cảnh ngộ nào đã trực tiếp chi phối tâm trạng con người nào”..., rằng: “Ông tàn nhẫn quá. Mà chúng tôi tự lượng sức mình không đủ để bênh vực cho giai nhân. Chúng tôi đành quay mặt đi, không dám thấy, và chỉ xin phép yếu ớt khẽ kêu lên một tiếng xuýt xoa một đôi bận mà thôi - những bận nào mũi dao của ông tỏ ra tàn bạo quá”. Với một giọng văn lúc thiết tha trầm lắng, lúc sôi nổi mạnh mẽ, Bùi Giáng góp phần làm cho người đọc cảm thương nàng Kiều hơn.

Những cuốn sách đầu tiên của Bùi Giáng có lẽ bán chạy nên các nhà xuất bản bắt đầu chú ý đến ông. Những cuốn sau, Bùi Giáng không cần phải bỏ tiền ra in nữa mà ông giao bản thảo cho các nhà xuất bản in để lấy tiền. Từ lúc đó trở đi, Bùi Giáng kiếm được kha khá nhờ những khoản nhuận bút. Vừa dạy học vừa viết sách, nếu khéo thu xếp như Nguyễn Hiến Lê, hẳn ông đã tạo dựng được cơ ngơi.

Thế nhưng Bùi Giáng hầu như không giữ lại cho riêng mình được cái gì. Một phần lớn khoản tiền nhuận bút ông đem tiêu pha rất lung tung, trong đó dành khá nhiều cho việc mua chó và khỉ về nuôi. Những người thần tượng hoá Bùi Giáng tỏ ra rất đắc ý với những việc làm khác người đó của ông.

Vào những năm về sau, khoảng gần cuối thập niên sáu mươi, ông in được nhiều sách, tiền nhuận bút cũng nhiều, ông càng tiêu tiền một cách kỳ cục hơn. Nhiều người kể có lúc thấy đàn chó của ông lên đến mấy chục con. Phạm Mạnh Hiên cho biết: “Hồi đó, sách của Bùi Giáng thường in ở nhà xuất bản An Tiêm, mỗi lần thầy Thanh Tuệ đưa tiền nhuận bút, tôi phải đi với anh Bùi Giáng. Lại lên đường ngao du nhờ cái bộ vó thư sinh hiền lành của tôi mà nhiều lần mấy cái khách sạn ở Chợ Lớn đã để cho chúng tôi cùng vào trú ngụ, bởi bên cạnh tôi có cái ông trung niên kỳ dị, ăn mặc cổ quái chẳng giống ai, lại dẫn theo cả đàn chó hay vài ba chú khỉ nhỏ”... “Ngày đó hễ có tiền là anh Giáng ra ngay khu chợ Bến Chương Dương mua cả bầy chó, cả bầy khỉ”. Cái thú đi giang hồ đã làm cho Bùi Giáng “nướng” hết những khoản nhuận bút vừa nhận. Có lần say ngất ngưởng, sáng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm ở vỉa hè.

Một người quen khác của Bùi Giáng kể: “Hơn 25 năm trước, tôi thấy ông nuôi một đàn chó nhỏ, đi đâu cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường, có lúc ông cho hết vào bao bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất ngư, ngộp thở, kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà bà Bé Ký cả tuần lễ làm bà Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là chúng sủa vang nhà không ai chịu nổi”. Khoảng năm 1974, một người em ruột của Bùi Giáng mua được ngôi nhà ở Thị Nghè và mời ông về ở. Ông đến, dắt theo cả đàn vừa chó vừa khỉ khiến hàng xóm hết sức kinh ngạc.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
32.33
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 05: Văn chương Bùi Giáng trong những cuốn sách đầu tiên

Nhiều độc giả từng biết đến một thứ văn dị thường của Bùi Giáng. Dị thường nhưng hồn nhiên trong trẻo, có lẽ đó là đặc điểm trong văn chương ông. Nhưng đã có thời văn chương ông chỉ hồn nhiên trong trẻo thôi, không có chút dị thường nào.

Hãy đọc một số tác phẩm đầu tiên của Bùi Giáng thì biết, trước hết là những cuốn ông viết ra trong thời kỳ mới đến Sài Gòn. Chúng được đặt tựa một cách khiêm nhường, chẳng hạn Một vài nhận xét về..., xuất bản trong khoảng thời gian từ 1957 đến 1959. Những cuốn sách này được viết ra nhằm phục vụ cho học sinh trung học. Trong sách có kèm theo những đề bài tập làm văn cho học sinh luyện tập, nội dung liên quan đến các tác phẩm cổ điển của văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm... Trên thực tế, đây là những cuốn sách thuộc thể loại giới thiệu tác giả tác phẩm, người lớn cũng có thể đọc và tìm thấy nhiều điều thú vị. Ở đây không có những ngôn ngữ kỳ dị mà ta thường gặp đầy rẫy trong những tác phẩm sau này của ông.

Hãy đọc một đoạn văn Bùi Giáng mở đầu phần bài viết về Lục Vân Tiên: “Lục Vân Tiên. Không một cuốn truyện nào đã làm xúc động tuổi nhỏ của chúng ta nhiều bằng tác phẩm của cụ Đồ Chiểu. Ngày tôi còn nhỏ, tôi được người vú già kể cho nghe. Kể đi kể lại mãi, và tôi cứ đòi kể lại cho nghe hoài. Dường như mỗi lần nghe lại, lại thấy mới mãi ra. Từ đó hình ảnh nhân vật Lục Vân Tiên cứ ám ảnh tôi luôn”... “Thế rồi ngày nay tôi lại nói chuyện Lục Vân Tiên với bà con nghe. Tất nhiên là nói sẽ dở lắm. Vì tôi không làm sao có được cái giọng của người vú già là một lẽ. Cái giọng trịnh trọng, chậm rãi, cảm động, lạ lùng, sau khi đằng hắng đủ ba lần, rồi mới bắt đầu: Trước đèn xem chuyện Tây Minh. Bao giờ cũng vậy, trước khi lựa lời kể lại, bà chậm rãi cao giọng ngâm mấy lời thơ đầu của cụ Đồ Chiểu. Và từ đó, cái câu Ai ơi lẳng lặng mà nghe mãi mãi trong tâm tư tôi sẽ còn vang một âm vang huyền hoặc”.

Đọc những đoạn văn đó ta có thể mường tượng ra ông là một người lịch thiệp, tóc tai, áo quần tươm tất, quá khác biệt với những gì mà ta thường hiểu về một thứ ngôn ngữ Bùi Giáng cà riềng cà tỏi được viết ra bởi một tác giả râu ria xồm xoàm, áo quần kỳ dị. Văn chương của ông lúc bấy giờ đẹp lung linh, không hề có những ngôn từ “lai rai theo điệu du côn” như ông tự nhận sau này.

Chưa hết, hãy đọc tiếp một đoạn văn trong cuốn sách viết về Chinh phụ ngâm: “Rồi những buổi sáng, những buổi chiều, có sương, có khói, có cánh nhạn ở cuối ngàn, có mây hồng vây ải lạnh, người sẽ trở gót ra lại bên đầu cầu, nhìn lại làn nước trong như lọc, kể lể những gì với nước suối, tỉ tê những gì Ngàn dâu xanh ngày kia che khuất bóng chàng, ngày nào sẽ trả lại cho ta bóng chàng về giữa những hàng cờ bay phấp phới?”.

Không chỉ bóng bẩy và hoa mỹ, ngòi bút Bùi Giáng lúc này còn thể hiện sự sắc sảo, tinh tế lạ thường khi phân tích tác phẩm. Hãy đọc thêm một đoạn này nữa trong cuốn sách viết về Truyện Kiều: “Kiều đã sống một cuộc sống giống chúng ta. Nàng đã đau khổ. Như mọi chúng ta thôi. Nhiều hơn một số, và ít hơn một số. Nàng tỏ ra có thiện chí ít nhiều, và nhiều lần tội lỗi. Đời nàng tầm thường là hình ảnh kiếp người tầm thường. Nhưng khi kể lại đời nàng cho ta nghe, Nguyễn Du đã có một giọng điệu nhặt, khoan, trầm, bổng thế nào, và đã làm sáng ngời bài học luân lý. Chúng ta cảm động. Khi lặng nghe Nguyễn Du chậm rãi giọng lời, chúng ta thấy bên kia câu chuyện tầm thường, giữa cuộc sống tối tăm, một kiếp người đương vùng vẫy. Trong tâm khảm ta, từ nay hình ảnh ấy sẽ in sâu, rõ nét, đậm màu”... “Giá trị luân lý của Đoạn trường tân thanh không do những hành động vụn vặt của Kiều, mà do lời thuật chuyện của thi nhân, lời đây không phải là lời văn, mà là giọng nói của một tấm lòng. Lời nói mang nặng biết mấy tâm tư tâm linh của người dân Việt hội tụ lại ở đây, một lần duy nhất, trong sáng hơn ca dao, thâm thuý hơn tôn giáo, diễm tuyệt hơn văn chương, vì cái giọng não nùng của một kiếp sống dở dang trong lòng đau thương của thế kỷ”.

Tuy nhiên, những áng văn tài hoa ngời sáng đó đã lùi dần để nhường chỗ cho một loại văn chương khác hẳn - một thứ văn chương vừa tài hoa vừa kỳ dị, tài hoa hơn và ngày càng kỳ dị hơn.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
33.33
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 06: Nỗi ám ảnh Nguyễn Du và Heidegger

Tiếp theo những cuốn sách giới thiệu các tác giả cổ điển Việt Nam, Bùi Giáng chuyển qua viết khá nhiều cuốn sách về con người, tác phẩm và tư tưởng của các nhà văn, nhà triết học phương Tây.

Đầu tiên là cuốn Tư tưởng hiện đại in năm 1960, đề cập đến Gabriel Marcel, Karl Jaspers, Albert Camus, Simone Weil, Paul Claudel, Saint Exupéry, Jean Paul Sartre, André Malraux. Cuốn sách này thể hiện một kiến thức uyên bác của tác giả, tuy Truyện Kiều thứ thiệt, thơ giả Kiều do tác giả sáng tác, thơ Tản Đà, thơ của nhiều nhà thơ khác được đưa vào đây không ít.

Năm 1963, bộ sách 2 tập dày ngót ngàn trang Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại ra đời. Đây là một cuốn sách vừa uyên thâm vừa kỳ lạ. Hãy đọc một đoạn văn ở phần Lời tựa: “Đã là con người quay chong chóng trên quả địa cầu tròn, có một ai không cảm thấy mình là lá cỏ lá rêu mù sương lá lách, lau cồn lìa kim dứt cải…Vậy phải biết nhắm hai con mắt lại để làm một cái giây leo như Tố-Như leo khắp mình mẩy Hoa Thi Đường Thi không chừa một chỗ”.

Người đọc có cảm giác như ông nhảy phóc vào trong tư tưởng của triết gia này và… quậy. Xin hãy đọc đoạn văn sau đây nằm trong chương Martin Heidegger và vấn đề hữu thể: “Người yêu ta xấu với người / Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau / Nỗi niềm tưởng tới mà đau / Hàng rào giun dế gặm sâu cẳng gà / Con ơi học lấy nghề cha / Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm. Tại sao một đêm ăn trộm bằng ba năm làm? Bằng ba năm hay bằng hai? Bằng hai hay bằng bốn? Một đêm mà bằng bốn năm kia ư? / Nhiều quá? – Mấy thì vừa? – Hai năm? Ít quá? – Vừa bằng là ấy ấy ấy chính lààà BAAA. Và ta xin trở lại với nguyên ý của nguyên tình nguyên mộng luỵ CA DAO LÀ MUÔN NĂM NGÀN ĐỜI VẠN ĐẠI NƯỚC VIỆT LÀ SƯƠNG TUYẾT KIỀU ĐẠM IN PHA: Con ơi! Nhớ lấy lời cha. Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm. – Vâng. Con nhớ lời cha. Tại sao nhớ? – Vì con có nghe. – Tại sao nghe? – Vì con có thấy. – Thấy gì? – Thấy rõ ràng lù lù trước mặt là… - Là gì? Là: Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm. – Ai ăn trộm? – Sartre ăn trộm áo quần của Heidegger – Áo quần đẹp mới hay không? Đẹp mới vô ngần. Nhưng… Nhưng sao? Nhưng than ôi! Tại sao lại xảy ra cái chuyện này là cái nỗi nông kỳ bí… - Kỳ bí như thế nào? Cái nỗi nông nông nỗi gì? – Thưa rằng áo quần của Heidegger vốn của Heidegger thì vốn của Heidegger mặc áo Heidegger coi ra rỡ ràng thật đẹp là Heidegger rỡ ràng quắc thước là hùng dũng Heidegger rạng vẻ cân đai Heidegger râu hùm mày ngài Heidegger hàm én đồ sộ cả cười hàm én Heidegger có nhìn đêm tế ngộ trông mặt là Heidegger trông mặt cả cười với Kiều và Thuý và Tố và Như và Nguyễn Du là ấy chính Heidegger đúng điệu thiên tài vùng vẫy trong bấy nhiêu niên đáng lẽ từ thiên thu làm nên kinh thiên động địa nếu gặp người từ lâu tri kỷ là đúng điệu tri kỷ của Heidegger…”. Đoạn văn kiểu như vậy dài ngót cả mấy chục trang sách. Đọc nó người ta thấy như bước vào một mê hồn trận.

Trong hai tập sách dày hơn một ngàn trang này có rất nhiều đoạn văn như thế. Không ai có thể biên tập được những cuốn sách này. Bùi Giáng cũng biết điều đó nên trong phần mở đầu một chương của cuốn Tư tưởng hiện đại, Bùi Giáng viết: “Bài này trước kia chúng tôi đăng ở tạp chí MAI, ký tên chung với ông Hoàng Minh Tuynh. Ông Tuynh đã có nhã ý muốn bày tỏ niềm thông cảm đối với tôi là một kẻ xưa nay vốn chịu nhiều những hững hờ của độc giả. Bùi Giáng, đó là một danh từ có âm hưởng lăng nhăng, không gây được tin tưởng. Ông Tuynh đã chịu khó bỏ giúp tôi những đoạn nào tôi viết quá trớn theo điệu du côn của Sartre và loại hẳn những tiếng bê bối lai rai là những tiếng tôi quen dùng”. Bùi Giáng đã cám ơn người biên tập cho ông trong phần mở đầu đó. Có lẽ đây là người duy nhất biên tập văn Bùi Giáng, và nhờ đó cuốn sách này trở nên gọn gàng, ta có thể hiểu được một số nội dung mà Bùi Giáng đưa ra. Nhưng bởi vì ông Tuynh là đồng tác giả. Còn nếu biên tập viên thì không thể làm được như ông Tuynh.

Có một số người Bùi Giáng nhắc lại mãi trong những trang viết của mình như là một nỗi ám ảnh. Hình bóng họ đã ăn sâu vào tiềm thức ông do những ấn tượng mạnh mẽ lúc ban đầu. Khi bệnh tình bộc phát, những hình bóng đó sẽ xuất hiện trở lại trong văn thơ ông theo những cách khác nhau. Trên lĩnh vực tri thức, đại thi hào Nguyễn Du và triết gia người Đức Martin Heidegger được ông lặp lại nhiều nhất.

Khi bước vào con đường nghiên cứu, Bùi Giáng quan tâm đến Nguyễn Du đầu tiên cùng với một số tác giả cổ điển khác. Chúng ta nhớ lại, cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện Phan Trần được ông viết vào năm 1957 thật sáng trong mạch lạc. Kể từ đó, thiên tài Nguyễn Du bắt dầu “nhập hồn” Bùi Giáng. Ước tính có đến cả ngàn lần Bùi Giáng nhắc tên Nguyễn Du. Trong thơ, trong văn, trong giới thiệu tư tưởng và triết học, thậm chí cả trong những bản dịch tiểu thuyết nước ngoài… đâu đâu ta cũng bắt gặp hình bóng Nguyễn Du. Bùi Giáng còn sáng tác nhiều bài thơ về Nguyễn Du. Một số bài thơ khác không liên quan, thì ông lại đề tặng Nguyễn Du.

Tuy nhiên, không phải như thế là Bùi Giáng sẽ dành những câu chữ hay ho nhất để viết về “cố nhân” của mình. Ngược lại, phần lớn những bài thơ viết về Nguyễn Du đều rất cà rỡn. Ta hãy đọc vài đoạn thơ Bùi Giáng viết về Nguyễn Du. Đây là một đoạn trong bài Nhớ ông: “Nhớ hoài ông Nguyễn ông Du / Ông Như ông Tố Điếu Đồ biển Nam / Hồng Sơn Liệp Hộ hội đàm / Hồng Sơn sơn nguyệt minh quang một mình”. Hoặc một đoạn khác trong bài Tố Như nhớ quê: “Tôi nay lão nhược hơn ông / Tôi ngoài bảy chục thong dong một mười / Ông chưa tới tuổi sáu mươi / Lìa đời lúc mới tuổi ngoài năm lăm”.

Đó là trong thơ. Vì thơ thì không phải lúc nào cũng đưa được một người nào đó vào mãi nên sự xuất hiện của Nguyễn Du cũng có giới hạn. Nhưng trong văn xuôi thì Bùi Giáng liên tục đưa Nguyễn Du vào. Đi sâu vào các trang sách của Bùi Giáng, ta thấy Nguyễn Du xuất hiện dày đặc. Khen thơ Hồ Dzếnh, Bùi Giáng viết: “Cũng may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm gì”. Viết về một câu chuyện không đâu vào đâu, Bùi Giáng cũng lại nói về Nguyễn Du: “Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm sau có kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau”. Viết về Albert Camus, Bùi Giáng cũng không quên Nguyễn Du: “Rồi những điều Nguyễn Du nói với ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ. Những điều Nguyễn Du nói với quỷ, thì thần thánh lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du”. Trong những cuốn sách như Mùa thu trong thi ca, Thi ca tư tưởng, Đường đi trong rừng… cứ một đôi trang là ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Du hiện lên qua cái lăng kính hài hước của Bùi Giáng: “Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui. Cũng không bị tẩu hoả nhập ma, vùng vẫy rú lên một tiếng như Zarathustra also sprach. Ông điềm nhiên làm Nam Hải Điếu Đồ. Kẻ câu ấy câu cái gì tại Nam Hải?”… “Và đó cũng là duyên do kỳ dị thiên biến vạn hoá đã khiến Nguyễn Du mở một trận Ẩn Tàng kỳ bí cổ kim bằng cách: cả hư không đặt để nên lời, cả nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung của song trùng tịch hạp thượng thừa huyền môn tâm pháp – Nguyễn Du đều đem gán vào môi miệng Bạc Bà Tú Bà”…

Bùi Giáng còn có cái thú làm thơ giả Kiều để ký tên chung Bùi Giáng – Nguyễn Du hoặc Bùi Giáng – Tố Như. Đó là những đoạn lục bát chen vào giữa những đoạn văn xuôi, có tí chút “chất Kiều”. Trong cuốn Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại có nhiều đoạn giả Kiều rất dài. Những câu giả Kiều ấy có khi sai cả vần sáu tám.

Cùng với Nguyễn Du là Heidegger. Ông này cũng xuất hiện rất nhiều trong các trang viết của Bùi Giáng, không kém gì Nguyễn Du. Không rõ triết gia người Đức này “nhập hồn” Bùi Giáng lúc nào mà đến năm 1963, khi Bùi Giáng viết bộ sách hai tập Martin Hedegger và tư tưởng hiện đại thì đã thấy ông bị “tẩu hoả nhập ma” bởi triết gia này rồi. Bùi Giáng đã viết đến năm sáu cuốn sách liên quan đến Heidegger. Nhưng như thế vẫn chưa thoả mãn, ông lại đưa triết gia này vào trong rất nhiều cuốn sách khác. Tuy nhiên khác với Nguyễn Du, Bùi Giáng ít dám “sờ cằm vuốt râu” Heidegger, dù đôi lúc cũng cà rỡn kiểu như: “Ông Cụ Già Nua Nước Đức Heidegger”, “Heidegger Đức Quốc Nua Già”. Người ta có cảm giác Heidegger được ông kính nể như một người thầy còn Nguyễn Du thì ông mến yêu như một người ông vậy…


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 07: Vị trí hai người đẹp Kim Cương và Marilyn Monroe trong lòng Bùi Giáng

Bùi Giáng yêu cũng thật lạ lùng. Trong lòng ông có rất nhiều người đẹp, nữ nghệ sĩ Kim Cương và diễn viên điện ảnh Mỹ Marilyn Monroe chiếm một vị trí đặc biệt. Đối với hai người này, Bùi Giáng mạnh dạn nói năng mà không hề e ngại điều gì. Bởi trong tâm thức ông, họ là hiện thân của cái đẹp nhân gian.

Hiện có rất nhiều giai thoại về chuyện Bùi Giáng mê Kim Cương, nhưng có lẽ ta cũng không cần tìm hiểu rằng chúng thật giả bao nhiêu phần trăm, bởi điều đó không mấy quan trọng. Vì như trường hợp Marilyn Monroe, một người ở tận bên kia đại dương mà vẫn nhập vào hồn ông được, huống gì là Kim Cương tài sắc ở ngay tại Việt Nam.

Kim Cương là đối tượng số một của Bùi Giáng. Hình bóng của người đẹp này dường như thường trú trong vô thức của ông chứ không phải thỉnh thoảng mới hiện ra như một số người khác. Bùi Giáng đã dùng mọi cách biểu đạt kỳ quái nhất để nói về Kim Cương. Bài thơ sau đây hẳn sẽ làm cho một số độc giả nữ cảm thấy “kỳ kỳ” nhưng đồng thời nó cũng cho thấy sự ám ảnh kinh khủng của người đẹp Kim Cương đối với ông. Đó là bài Cô Kim Cương ơi, in trong tập Sa mạc phát tiết, nguyên văn như sau: “Nếu ngày sau tôi chết đi, mà cô không thể giỏ cho một giọt nước mắt/Thì cô có thể giỏ cho một giọt nước tiểu cũng được/(Nhớ giỏ ngay trên nấm mồ)/Ở dưới suối vàng tôi sẽ ngậm cười mà đón nhận/(Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây)”. Thật là một bài thơ không thể nào tưởng tượng nổi.

Nhưng không chỉ có vậy. Trong cuốn sách Con đường ngã ba, Bùi Giáng còn bị ám ảnh dữ dội hơn nhiều. Suốt mấy trang liền, ông nhắc đi nhắc lại “lời đề nghị” ở trên: “Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ. Thiên tài buổi Hoàng Hôn thốt một lời như thế. Nhưng Vũ Lâm Xuân của Thệ Đa Lâm vẫn không thể trùng sinh trên đống xương tơi tả của mình...”... “Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ. Đó quyết nhiên là lời rốt ráo tối hậu. Không cách gì nói khác. Nấm mồ tại hạ. Không thể đổi tiếng đó ra làm một tiếng nào khác. Hãy đi tiểu. Có thể nào đổi tiếng đi tiểu ra làm một tiếng khác...”... “Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ vẫn vĩnh viễn là ngôn ngữ tuyệt trù bất tận thi nhiên. Vì chỉ nói như vậy thì ngàn vạn năm sau riêng hình ảnh cô Kim Cương sẽ vĩnh viễn đi về Trong Tháng Ba Lễ Hội để giải oan cho Tượng Vương hồi xứ Hoa Nghiêm Kinh...”... “Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ là sự vụ cần yếu ban sơ cho cuộc tối sơ đi về huỷ thân giữa trần thổ. Cô Kim Cương vén xiêm đi tiểu xong rồi, thì từ nấm mồ của trần thổ huỷ thân đó sẽ nảy nở ra cuộc đầu thai nơi núi đá...”. Cứ một ý như vậy mà Bùi Giáng nói dông nói dài mãi. Nhưng sau đó, cách khoảng mấy trang, Bùi Giáng lại đổi ý, không muốn giữ lời đề nghị trên nữa: “Hỡi mẫu thân Kim Cương! Mẫu thân hãy dừng cuộc đi tiểu trong một thời gian để suy ngẫm trở lại xem có thể tạo ra một vũ trụ khác để đi tiểu”.

Chúng ta không cần quan tâm đến ý nghĩa của từng câu chữ. Nhưng chúng mang cái ý nghĩa tổng quát, đó là sự ứng xử của vô thức đối với từng khái niệm. Ở đây là sự ứng xử với cái đẹp khác giới tính của thi sĩ trong trạng thái tâm thần không bình thường.

Theo sau Kim Cương, Marilyn Monroe cũng được Bùi Giáng mê cuồng. Ông đã sáng tác một số bài thơ về người đẹp này. Ta hãy đọc bài Trời khóc Marilyn để xem Bùi Giáng viết về người đẹp này như thế nào: “Trời xanh úp mặt nghe tin/Thôi rồi! Em Má Ri Lyn đi rồi/Từ đây ta bỏ ngai trời/Thu thời gian đập tơi bời càn khôn/Giữa hư vô nếu em còn/Nhớ ta em gửi cái hồn cho ta/Úp môi ôm mặt khóc oà/Cồn lê lên miệng là ba bốn lần”.

Đó là bài thơ ông in trong tập Hoa lá cồn, xuất bản năm 1963. Sau đó trong phần Mưa nguồn hoà âm, ông lại viết một bài thơ với cái tựa cũ là Trời khóc Marilyn. Bài thơ có mấy chục câu bắt đầu từ chữ luống, một loạt câu khác bắt đầu từ chữ một. Bài thơ này có một số câu chữ đi vượt quá giới hạn “đố tục giảng thanh”, không thể trích dẫn vào đây được. Nhưng nó cho thấy rõ cái cách mà Bùi Giáng trình bày về cái đẹp trần tục theo cảm hứng của ông.

Có lẽ nói mãi cũng không hết được chuyện Bùi Giáng làm thơ về những người đẹp. Cho nên ta hãy đọc mấy câu thơ mà ông “phân loại đánh giá người đẹp” trong bài Quốc sắc Việt Nam sau đây: “Nam Phương Hoàng hậu đẹp một cách thong dong/Kim Cương Nương tử đẹp một cách thoải mái/Hà Thanh Công chúa đẹp một cách cởi mở/Trí Hải Ni cô đẹp một cách không lời”. Bài thơ này còn dài nhưng chỉ trích dẫn chừng này câu cũng đủ cho thấy “vị giám khảo cuộc thi Người đẹp Việt Nam” này có con mắt tinh đời lắm.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
33.67
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 08: Những người phụ nữ đẹp thoát trần

Không chỉ có Kim Cương và Marilyn Monroe, Bùi Giáng còn say đắm nhiều phụ nữ khác. Mỗi người một vẻ, họ hiện ra trong nhiều màu sắc kỳ bí khác nhau. Đó không phải là những nàng thơ theo nghĩa thông thường mà là hiện thân của cái đẹp.

Một cách vô thức, Bùi Giáng phân biệt họ theo những tiêu chí khác nhau. Những người đầu tiên có thể kể đến là Hoàng hậu Nam Phương và ni cô Trí Hải. Khác với nghệ sĩ Kim Cương và cô đào rực lửa người Mỹ Monroe Marilyn là hiện thân của cái đẹp nhân gian trần tục, hai người này thuộc về thế giới của cái đẹp thoát trần.

Một ngày nọ, Bùi Giáng nhận được một phong bì gửi đến, trên có dán con tem in hình Nam Phương Hoàng hậu. Sự kiện nhỏ nhoi ấy lập tức gây xúc động lớn với ông. Từ lúc đó, Hoàng hậu Nam Phương trở thành một hình bóng ám ảnh ông. Bà bắt đầu xuất hiện trong các trang viết của thi sĩ. Trong cuốn Mùa thu trong thi ca Bùi Giáng viết: “Suốt bao năm dài tại hạ làm thơ, chung quy chỉ vì cái màu xuân xanh bất tuyệt ban sơ của Dương Hoàng Hậu. Màu xuân ấy đã một lần tái sinh cách đây ba mươi năm trong hình hài máu me Nam Phương Hoàng hậu. Tại hạ yêu Dương Quý Phi bao nhiêu thì cũng yêu Nam Phương Hoàng Hậu bấy nhiêu”.

Mặc dù Bùi Giáng luôn tôn kính Nam Phương, nhưng ông cũng hài hước, cà rỡn, lan man trên hình ảnh của bà cũng bởi tính của ông như vậy. Tuy nhiên, Bùi Giáng cố gắng giữ “chuẩn mực”, không bao giờ đi quá đà. Một đôi khi ngẫu hứng quá thì ông cũng chỉ viết như thế này: “Chiêm bao anh thấy Hoàng hậu Nam Phương dắt tay Marilyn Kim Cương nương tử tới gõ cửa xin vào thăm viếng anh thì anh bảo rằng anh đang bận viết lá thư cho em nên không thể nào đón tiếp Hoàng hậu được thì cảm phiền Hoàng hậu hãy lui gót chờ qua ngày mai anh sẽ ân cần chiếu cố”.

Bùi Giáng cũng có sáng tác một đôi bài thơ về Nam Phương. Trong bài Chiêm bao Nam Phương Hoàng hậu, dù là một bài thơ thuộc vào thể “điên loạn”, nhưng ông vẫn đủ “tỉnh táo” để ngòi bút không chệch qua chỗ thiếu đứng đắn: “Kê bô tí xí đêm đà/Ki ba ri xí i à xán da/Xã dan xoàng xĩnh giang hà/Ồ mô pha cố cồ ri xa ì/Tử tì mỉm tí tì ti/Miệng vàng hợp nhất nhu mì nhị biên/Ra sông ngồi ngó diện tiền/Ngần sương sái diện uy quyền nữ vương”.

Bên cạnh Hoàng hậu Nam Phương, ni cô Trí Hải xuất hiện trong các trang sách Bùi Giáng một cách khá dày. Bà là một người có trình độ uyên thâm, tác giả của một số đầu sách. Có lúc Bùi Giáng gọi bà là Trí Hải ni cô, có lúc gọi là mẫu thân Phùng Khánh. Bùi Giáng làm rất nhiều bài thơ về bà. Có thể kể tên một số bài như Mẹ Phùng Khánh, Kính tặng Phùng mẫu thân, Mẹ Phùng Thăng Khánh, Phùng Khánh Mẫu Thân...

Rất nhiều người thắc mắc vì sao Bùi Giáng gọi người này là mẹ, là mẫu thân. Bùi Giáng cũng từng “giải thích” chuyện đó trong Thi ca tư tưởng như sau: “Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc là người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?”.

Có lẽ Bùi Giáng đã tìm thấy nơi người nữ tu này điều gì đó gần gũi với hình bóng người mẹ xa xưa của ông, hoặc là tấm lòng nhân ái của bà làm ông cảm động, hoặc là trí tuệ mẫn tiệp của bà khiến ông nể phục... Vì một trong những lý do nào đó mà ta không thể đoan chắc được, thi sĩ bật ra tiếng gọi mẹ trong vô thức một cách da diết. Những bài thơ của ông vì thế đọc lên thấy vừa tức cười vừa tội nghiệp: “Mẹ còn nhớ nữa con chăng/Mẫu thân Phùng Khánh con hằng chẳng quên/Tuy đôi phen chết nếp nền/Cung vang lừng bậc điệu đền bù xoang/Mẹ về ngõ vắng vườn hoang/Thừa thiên sông lạnh kéo sang khu rừng”...“Mẹ nhìn con nữa còn chăng/Mẹ đi đứng gót mẹ hằng hằng qua/Lúc vui buồn mẹ nhớ nhà/Quận châu xứ sở con đà lãng quên/Phùng thăng mẹ chớ xui nên/Từng cơn điên dại khôn đền cho con”... “Nghe tin con chết giữa đường/Mẫu thân Phùng Khánh càng thương con nhiều/Con bèn tái điệp giấn liều/Chết thêm một trận hoang liêu song trùng/Mẹ càng bất tuyệt nhớ nhung/Ngày đêm mẹ khóc vô cùng vì con”... “Con thương Phùng Khánh vô ngần/Phùng thăng thân mẫu cũng gần như nhiên/Nguyệt rừng lộng lẫy man nhiên/Trăng ngàn thơ dại ngậm nghiêng nghiêng vành”...

Những câu thơ này, dù không được bình thường, nhưng nó lại gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm man mác. Phải chăng trong tiếng gọi mẹ thiêng liêng ấy là một sự cô độc tận sâu thẳm hồn người? Nhưng Bùi Giáng là như vậy. Trong suy tư, trong cảm xúc, trong cuộc đời... ông lúc nào cũng hồn nhiên như con trẻ.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 09: Một năng lực phi thường của kẻ suốt ngày rong chơi

Con người rong chơi suốt ngày này đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đáng kinh ngạc. Tổng số sách Bùi Giáng viết hoặc dịch đã được in lên tới trên dưới 70 cuốn. Làm sao ông có thể tạo ra một khối lượng tác phẩm đồ sộ như vậy trong khi không ai thấy ông làm việc cả? Do Bùi Giáng viết với tốc độ quá nhanh chăng? Quả là như vậy thật. Câu chuyện do một nhà văn gần gũi với Bùi Giáng trước năm 1975 kể sau đây quả là kỳ lạ.

Nhà văn này cho biết, khi một tạp chí văn học thực hiện số chuyên đề về Bùi Giáng vào năm 1973, ông được phân công giới thiệu những bài thơ mới nhất mà Bùi Giáng sáng tác. Những bài vở khác của số tạp chí đó đã được những người khác thực hiện xong, chỉ còn chờ đợi những bài thơ của Bùi Giáng thôi. Nhưng Bùi Giáng sống rày đây mai đó, không có một địa chỉ nào cố định, biết ông ở nơi đâu mà tìm. Thật là nan giải. Đang loay hoay chưa biết kiếm tìm ở đâu thì thi sĩ bất ngờ ghé vào toà soạn. Trước mắt mọi người là một bộ da bọc xương trong quần áo rộng thùng thình, một mái tóc dài đạo sĩ rối như tổ quạ, một cái túi vải cộng với một cây gậy. Nhà văn mỉm cười kéo Bùi Giáng ra trước toà soạn chụp chung một tấm hình làm kỷ niệm rồi mới hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Bùi Giáng gật đầu đồng ý liền.

Tưởng rằng Bùi Giáng sẽ lấy những bài thơ đã chép sẵn ở túi vải ra hoặc nếu không có sẵn thì ông nói để chờ ông về nhà lấy đem tới liền hoặc là ông sẽ khất hôm sau đem thơ đến. Nhưng tất cả mọi dự đoán đều không đúng. Bùi Giáng chỉ hỏi mượn toà soạn một cây bút, xin một xấp giấy và một... chai bia. Xong rồi ông bắt đầu ngồi xuống bàn. Và ông viết. Không phải là ông ngồi nhớ để chép lại những bài thơ làm từ hôm qua hôm kia hoặc tuần trước, mà là ông ngồi để sáng tác thơ ngay tại chỗ.

Bấy giờ mọi người mới kinh ngạc nhìn nét bút, trong tay ông “thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả”, và những câu thơ lần lượt hiện ra trên giấy mà theo lời nhà văn trên là “như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu ngón tay thôi”. Chai bia còn sủi bọt thì Bùi Giáng còn ngồi viết không ngừng. Thơ cũng tuôn ra không ngừng trên những trang giấy. Nét chữ cũng nắn nót chỉn chu chứ không phải gạch đi xoá lại. Sau khi chứng kiến “gã phù thuỷ” Bùi Giáng sáng tác thơ ngay tại chỗ, nhiều người trong toà soạn bấy giờ mới hiểu được một phần bí ẩn của con người ông. Một người khác chứng kiến chuyện này tâm sự: “Lần đó, tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng cứ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Đúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ”.

Sau khi sáng tác đủ đơn đặt hàng của toà soạn, Bùi Giáng uống cạn chai bia, cười và lặp lại ba tiếng cửa miệng “vui thôi mà”, rồi đứng lên đi thẳng. Bùi Giáng ra khỏi toà soạn mà mọi người vẫn còn ngồi ngẩn ra đó, ai nấy đều chưa hết bàng hoàng kinh ngạc.

Quá trình tư duy và lao động sáng tạo trong con người Bùi Giáng như thế nào? Ông đã hình thành những tứ thơ ra sao? Vì sao ông có thể tuôn ra được những câu thơ mà không cần suy nghĩ? Đó là những câu hỏi mà rất nhiều người tò mò muốn biết nhưng có lẽ không ai tìm hiểu được. Ông Huỳnh Ngọc Chiến, một người quen biết với Bùi Giáng kể, một lần nọ có mấy người bạn Quảng Nam cùng ngồi uống cà phê với Bùi Giáng, một người rất ái mộ Bùi Giáng tò mò hỏi ông thường làm thơ như thế nào, thì Bùi Giáng cười và nói: “Qua làm thơ cũng giống như em là kỹ sư mà làm toán lớp ba rứa thôi”. Theo ông Huỳnh Ngọc Chiến thì lúc đó Bùi Giáng trả lời rất thành thật, chẳng có một chút biểu hiện cao ngạo nào cả. Vì thế có thể tin lời Bùi Giáng rằng với ông, làm thơ là một công việc dễ dàng, đơn giản như ta làm toán cộng toán trừ, đặt bút vào là làm chứ không cần phải suy nghĩ.

Chính nhờ khả năng viết nhanh đó mà Bùi Giáng đã cho ra đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ như trên. Giai đoạn ra sách nhiều nhất của Bùi Giáng là khoảng từ năm 1964 đến năm 1970. Riêng năm 1969 Bùi Giáng cho ra đời đến mười cuốn sách. Cũng trong những năm này có những người đứng ra thành lập nhà xuất bản với mục đích chủ yếu để in tác phẩm của Bùi Giáng.


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bùi Giáng, thi sĩ kỳ dị - Kỳ 10: Bùi Giáng có phải là một người điên không?

Từ trước đến nay có rất nhiều người đặt câu hỏi: Bùi Giáng có phải là một người bị mắc bệnh điên hay không? Cũng đã có rất nhiều bài viết về Bùi Giáng đề cập đến vấn đề này, trong đó một số tác giả khẳng định Bùi Giáng là người điên trong khi một số khác lại nói ngược lại.

Trong một bài viết, tác giả Trần Đới khẳng định: “Một sự thực là Bùi Giáng chưa bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ luý tuý càn khôn của anh. Thời kỳ của Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tỉnh lại và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó... Bây giờ người thi sĩ này chỉ còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống”.

Một người khác, ông Nhất Thanh, thì viết như thế này: “Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta”.

Bùi Giáng hiển nhiên cũng biết việc nhiều người tranh cãi nhau rằng ông có điên hay là không điên. Ông đã tự viết về mình như sau: “Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy”.

Đọc đoạn đó của ông người ta thấy hơi bối rối. Vậy thì Bùi Giáng là người như thế nào? Ông là một người điên hay là một người bình thường? Nhưng có một sự thật không thể chối cãi: Bùi Giáng đã từng là bệnh nhân của bệnh viện tâm thần hẳn hoi. Năm 1969 là năm ông in được nhiều tác phẩm nhất nhưng cũng là năm mà ông vấp phải cú sốc lớn thứ hai trong đời. Bùi Giáng bị hoả hoạn thiêu cháy hết toàn bộ sách vở quý hiếm, một số tranh và đặc biệt nhiều bản thảo hoàn chỉnh mà ông rất tâm đắc. Con người hồn nhiên của Bùi Giáng có lẽ không bị sốc vì chuyện này, nhưng sau đó người thân của ông phải đưa ông vào Bệnh viện Tâm thần Biên Hoà để chữa trị. Cung Tích Biền kể: “Khoảng đầu thập niên 70 có lẽ người ta đưa ông vào nhà thương điên Biên Hoà chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường tình: “Nhà thương Biên Hoà trị cái tẩu hoả hay nhỉ!”. Ông trả lời tỉnh queo: “Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên”.

Nghe Bùi Giáng nói như thế, hẳn người ta cảm thấy ngờ ngợ rằng những việc làm không giống ai của ông là do ông muốn thế chứ chẳng phải do bệnh tật gì gây ra. Nhà văn Đào Hiếu viết: “Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn, là phi lý, là chốn lưu đày, là cõi phù du là cái mớ bòng bong vớ vẩn...”.

Chung quanh vấn đề Bùi Giáng, có hai điều cần nêu ra sau đây. Một là, không phải chỉ có mình Bùi Giáng vừa có những biểu hiện tâm thần vừa làm thơ viết văn. Có rất nhiều bệnh nhân của các bệnh viện tâm thần là nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ... Họ có thể vẽ tranh, sáng tác văn thơ ngay trong thời gian điều trị bệnh. Có điều họ không có sẵn cái gốc tài năng xuất chúng như Bùi Giáng nên không trở thành hiện tượng đặc biệt mà thôi.

Hai là, những hành vi khác người của Bùi Giáng đã được các nhà chuyên môn xác định có nguyên nhân bệnh lý hẳn hoi chứ không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân sinh quan gì cả. Có điều, vì ta thấy cái điên của ông cũng hơi khác người nên cảm thấy ngờ ngợ. Nhưng dần dần ta sẽ được rõ hơn khi xem xét đến các vấn đề khác. Cần biết rằng, không riêng gì Bùi Giáng mà nhiều bệnh nhân tâm thần khác, tiếp xúc với họ đôi khi ta cũng dễ nhầm lẫn vì thấy họ có vẻ thật thật giả giả, nửa điên nửa tỉnh. Cho nên chúng ta không thể kết luận được về tình trạng của họ mà phải là các nhà chuyên môn.

Không ai biết Bùi Giáng, đọc Bùi Giáng mà không yêu mến ông. Đó là sự thật. Gọi ông là người tỉnh cũng được, điên cũng được, dù là tỉnh hay điên ông cũng đã để lại cho đời những vần thơ mênh mang trác tuyệt. Ông mở ra một thế giới thi ca cao vời, ảo diệu. Nói như một người từng gần gũi với ông: “Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi là nếu có được thêm ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu”. Quả đúng như vậy!


Trần Đình Thu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
44.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 3 trang (25 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối