Thông báo, tin tức mới nhất

  • Thêm mục Tiêu điểm tác giả (14/01/2022 15:30)

    Mục Tiêu điểm tác giả gồm 10 tác giả được hệ thống lựa chọn để giới thiệu, được hiển thị trên trang chủ và được cập nhật tự động một tuần một lần. Trong mỗi lần cập nhật, hệ thống sẽ thêm vào một tác giả mới và bỏ bớt một tác giả trước đó. Tác giả mới được thêm vào được lựa chọn hoàn toàn ngẫu nhiên từ cơ sở dữ liệu, không phân biệt quốc gia, số bài thơ, và cũng đảm bảo tiêu chí không lặp lại trong 100 lần lựa chọn gần nhất. Danh sách đầy đủ lịch sử 100 tác giả được giới thiệu gần nhất cũng được hiển thị trong trang mở rộng tại đây.
  • Cho phép liên kết tài khoản Thi Viện và tài khoản Facebook (09/10/2021 20:23)

    Trước đây, tài khoản tạo trên Thi Viện và tài khoản khi đăng nhập qua Facebook hoạt động độc lập và không liên kết được với nhau. Từ nay, Thi Viện cho phép một tài khoản đăng ký trên Thi Viện có thể được liên kết với một hoặc nhiều tài khoản Facebook. Để liên kết, hãy đăng nhập vào tài khoản chính, sau đó chuyển tới Trang cá nhân rồi chọn "Liên kết tài khoản Facebook mới". Từ đó trở đi, bạn có thể đăng nhập vào cùng một tài khoản theo cả hai cách. Sau khi đã liên kết, bạn cũng có thể huỷ để liên kết lại tài khoản Facebook với tài khoản chính khác.
  • Một số thiết bị cũ không truy cập được Thi Viện từ ngày 1/10/2021 (02/10/2021 14:59)

  • Mở các tuyển tập thơ chung và riêng (20/05/2020 08:50)

  • Cho phép đánh dấu nhiều dịch giả trong bài dịch (23/12/2019 10:42)

Thơ mới: Chung một lời thề (Nguyễn Bính)

Xã Vĩnh Bình cờ bay đỏ chói
Sông Chắc Băng vang dội tiếng tàu
Câu hò giọng hát chen nhau
Đoàn quân tập kết Cà Mau lên đường
Mặc dầu trời nắng chang chang
Má Tư vẫn cố chèo xuồng theo đưa:
“Con đi cho mẹ dặn dò
Gửi lời kính chúc Cụ Hồ muôn năm!
Con đi luôn nhớ miền Nam
Ráng xây lực lượng vài năm lại về.
Má xin giữ chọn lời thề
Đấu tranh đón các con về miền Nam!”

Mấy doi, mấy vịnh, mấy vàm
Con nhìn theo má chèo ngang bóng dừa
Gió lùa mái tóc bạc phơ
Mến thương tràn ngập mấy bờ sông sâu:
“- Má ơi, con dám quên đâu
Con xin thề đúng như câu má thề
Nghìn muôn gian khổ chẳng nề
Má chờ con nhé, con về, má ơi!”


11-1954

Nguồn: Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986

 

Thơ thành viên mới: Trung thu nhớ mẹ (Nguyễn Quang Vinh)

Một mùa thu nữa lại về
Hàng cây trút lá bên lề, thềm sương
Quế hoa toả một mùi hương
Rưng rưng từng cánh, chạnh thương nhớ Người.

Không quên chiều ấy, thu rơi
Mẹ đi, con khóc, đầy trời mưa bay
Nghẹn ngào con nắm bàn tay,
Xương xương, gầy guộc, từ nay... đâu còn?

Nhạc buồn, trống hiệu ly tan
Càng thêm đau nỗi ruột gan cồn cào
Giữa đêm mờ mịt trăng sao
Bước chân tiễn mẹ thấp cao, vô hồn

Khu gò bên cạnh xóm thôn
Bóng hình xa khuất, vùi chôn... vĩnh hằng
Ai còn nhớ mẹ ta chăng?
Ơn sâu, nghĩa nặng sánh bằng biển kia!

Tiền Giang 15/09/2016
(Ngày giỗ Mẹ, rằm trung thu - tháng tám ÂL)

Trích diễm

Tôi là con bé dở hơi

Mẹ sinh tôi chẳng chọn nơi chọn thời

Khi tôi mở mắt chào đời

Quê mùa lọt giữa đất người thành đô

–– Tôi ơi! (Trường Phi Bảo)

Tác giả mới

Thơ Việt mới

Thơ dịch mới

Thơ thành viên mới

Diễn đàn

 

Tiêu điểm

Ấm Bảy có tên là Muôn, dòng họ Trương, cháu của Trương Quang Đản ở Mỹ Khê, Sơn Mỹ, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Ông là một nhà thơ trữ tình nổi tiếng ở miền núi Ấn sông Trà.
Thơ tiêu biểu: Khóc vợ bài 1Khóc vợ bài 2
Gunhild Bricken Kristina Lugn (14/11/1948 - 9/5/2020) là nhà thơ, nhà viết kịch, Viện sĩ Viện Hàn lâm Thuỵ Điển. Bà sinh ở Tierp, Uppland. Thơ Lugn mang tinh thần mỉa mai, buồn, bộc bạch, đầy chất u-mua phi lý, tàn nhẫn. Thơ bà xoay quanh những chủ đề như sự cô đơn, cái chết, nỗi sợ tuổi già, sợ chết,…
Đàm Tự Đồng 譚嗣同 (1865-1898) tự Phục Sinh 復生, hiệu Tráng Phi 壯飛, còn tự xưng là Hoa Tương chúng sinh 華相眾生, Đông Hải Khiên Minh thị 東海褰冥氏, Liêu Thiên nhất các chủ 廖天一閣主. Ông là người Hán, quê ở Hồ Nam. Tuổi trẻ đã có chí lớn, tài văn chương. Ông đã đề xướng nền chính trị mới, sáng lập Nam Học hội. Năm Quang Tự 24 (1898) ông tham gia phong trào Duy Tân do Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu khởi xướng. Sau khi thất bại ông khảng khái hy sinh.
Từ Diễn Đồng (1866-1918) hiệu Long Tài, là một nhà thơ Việt Nam ở cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ông sinh ra tại làng Hà Hồi, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội) trong một gia đình nhà nho nghèo. Năm 1906, ông đỗ tú tài (nên tục gọi là Tú Đồng hoặc là Tú Từ), nhưng không…
Vô Ngôn Thông 無言通 (759?-826) vốn là một vị thiền sư từ Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, sư qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ 建初, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông. Sư mất năm 826, và phái thiền của sư kéo dài được 17 thế hệ. Những thiền…
Thơ tiêu biểu: Thị tịch
Thanh Giang 清江 người Cối Kê 會稽, làu thông kinh sách, sống khoảng năm Đại Lịch, Trinh Nguyên đời Đường, tề danh cùng Thanh Trú 清晝, xưng là Cối Kê nhị Thanh. Thơ có một quyển.
Thơ tiêu biểu: Thất tịch
Nguyễn Vũ Tiềm sinh năm 1940 tại Gia Lâm, Hà Nội. Bút danh: Hướng Thiện. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.

Tác phẩm:
- Nữ hoàng trái cây (1987)
- Chia tay võ sĩ dế (1988)
- Thức đợi hoa quỳnh (1991)
- Thương nhớ tài hoa (1992)
- Người thám hiểm thời gian (1993)
- Hoài nghi và Tin cậy (2004)
- Hương Giao thừa (1994)
- Sương Hồ Tây, mây Tháp Bút (2011)

Hàn Câu 韓駒

Hàn Câu 韓駒 (?-1135) là nhà thơ cuối thời Bắc Tống đầu thời Nam Tống. Là thi sĩ thuộc phái Giang Tây. Ông tự là Tử Thương 子蒼, hiệu là Mâu Dương 牟陽, người Tiên Tỉnh, Lăng Dương (nay là huyện Nghiên, tỉnh Tứ Xuyên). Người đời gọi ông là Lăng Dương tiên sinh. Từng theo học Tô Triết. Đã đảm nhiệm các chức…
Đằng Bạch 滕白 người đời Tống sơ, từng làm Hộ bộ phán quan, Nam diện tiền chuyển vận sứ, Công bộ lang trung. Thơ ông có Đằng công bộ tập một quyển nhưng đã thất truyền, nay còn 6 bài.
Thơ tiêu biểu: Yến
Đoạn Nhai Liễu Nghĩa 斷崖了義 (1263-1334) là thiền sư đời Tống, họ Thang 湯, quê ở Đức Thanh, Hồ Châu, Trung Quốc. Ăn chay từ thuở nhỏ, cùng mẹ tụng kinh Pháp Hoa. Về sau lên núi Thiên Mục, đến thất Tử Quan bái kiến thiền sư Cao Phong Diệu trình kệ và được xuất gia. Năm 70 tuổi sư đến ở chùa Chánh Tông tại núi Sư Tử cho đến ngày viên tịch. Được vua ban thuỵ hiệu là Phổ Độ đại sư.
Thơ tiêu biểu: Kệ