Trang trong tổng số 8 trang (78 bài viết)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

NHỮNG ÁNG BÌNH THƠ
https://lh3.googleusercontent.com/-O6_n81-26fg/YPufd69UwPI/AAAAAAACQ78/5vr0g_zyiz0e-aLJgYVboag0o7IM6gl3QCLcBGAsYHQ/w200-h185/image.png
Tập 2
Nâng cánh Thi ca

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiuw4c7SPJV3GAcEzMzfo266uYMGNfG2fdLAIYnMns8FVsmSIZkekBtXKh7Vuj0JivbLLaRTvZSeMaPrtYyHWfE_EeAUS7VScOHH-k4I5h2DoQATw-gqgl-u8EM4wpouI09rDHx7KPg0IzilNYQ6DVvSjoQcgzhUpcUxQMUZzHg0CYS9yrmwttuQsOAr9x_/w640-h356/5-1.PNG
2024

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

THƠ FACEBOOK
LẠ MÀ QUEN


Đọc thơ của ông cha mình, tôi thấy lớp người trước đau đớn, thương yêu chân thật lắm, sâu lắng lắm và tuyệt nhiên chẳng tù mù, cầu kỳ, rắm rối chút nào về ngôn ngữ. Thơ của ông cha mình thốt ra thật sự từ cõi lòng, không mượn vay ai cả, chính vì vậy đã trở nên thật gần với nhân dân, tồn tại cho đếnh ngày nay. Đó là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Tất cả đều là những thi hào, thi bá sáng toả trên vòm trời thơ của đất nước, và hậu thế đọc trong từng con chữ là những đau đớn lòng, như cảm nhận của chính thân phận mình.

Từ xưa đến nay, các nhà thơ được nhân dân kính trọng, yêu mến khi nhà thơ có những tác phẩm mang nỗi buồn vui và khát vọng của mọi người. Dù không tự nhận là nhà thơ, nhưng người đọc rất công bằng . Đó là những kẻ nông, kẻ chợ, kẻ sĩ những con người khổ đau, chân lấm, tay bùn lam lũ mưu sinh cả đời , tầng lớp nầy đã định giá chính xác ai là thi nhân của họ. Chính là họ, không ai khác, đã thầm lặng bầu chọn ra anh hùng và nhà thơ cho dân tộc mình. Và, những gì mọi người tự nguyện bầu chọn ra, tự nguyện ghi tâm khắc cốt mới lâu bền, mới trở thành giá trị thi ca muôn thuở của đất nước.

Tài năng nào, tài năng đến mấy cũng phải gắn với chữ Tâm mới mong toả sáng lưu truyền. Cốt lõi chữ Tâm chính là lòng Thiện, diễn giải giản dị như thơ của bình dân là
Thương người như thể thương thân

Lòng Thiện ấy, như Nguyễn Trãi từng viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Như Nguyễn Du từng khóc:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng,

Như Hồ Xuân Hương từng cảm:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi…

Nói gì thì nói đặc trưng của ngôn ngữ thơ vẫn là biểu đạt tình cảm. Làm thơ là để thông qua hình tượng ngôn ngữ để nhà thơ gửi gắm cái tình, cái chí của mình trong đó. Điều này cũng xưa cổ nhưng bất tử như văn học của mỗi dân tộc

Không nhất thiết có thơ đăng báo, thơ xuất bản thành tập và phải là hội viên hội nhà văn thì mới là nhà thơ. Chính xác. Bởi lẽ thời các bậc tiền bối như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan đâu có thơ in báo, in tập như bây giờ, chủ yếu là được lưu truyền, đó mới là giá trị tồn tại đích thực nhất của thơ.

Lâu nay, chắc chắn có rất nhiều người âm thầm làm thơ, không cần thiết như tôi đã bày tỏ. Vài năm trở lại đây, nhất là khi trang mạng Facebook trở nên phổ biến trên toàn thế giới, có không ít người xem đó là tờ báo tự do nhất, nhiều người viết nhất, nhiều người đọc nhất thì thơ cũng đến với Facebook nhiều nhất. Ở Việt Nam, bên cạnh tên tuổi các nhà thơ quen thuộc xuất hiện trên facebook như một điều hẳn nhiên vì ngày nay, sách báo đều không mặn mà lắm với thơ, báo viết ít in thơ, thơ xuất bản thì không ai mua, chủ yếu là để tặng. Facebook là nơi nhà thơ gửi thơ của mình đến với người đọc. Và như thế thơ trên Facebook đã tạo được một phong trào thơ Facebook , kích thích người yêu thơ sáng tạo. Thơ Facebook giống như cơ hội để những người yêu thơ chia sẻ, giãi bày cảm xúc.

Gọi khan ngàn tiếng lỡ làng
Sắt se buộc lấy võ vàng vào tim
Cuối trời vệt nắng im lìm
Rưng rưng thắp nhớ đốt tình chưa quên
Đốt tình
Thanh Thuỷ Nguyễn

Em biết không, khoảng lặng của lời thơ
Dấu chấm lửng cách chia dòng ngôn ngữ
Khoảng lặng ấy gợi lên bao suy nghĩ
Tuỳ mỗi người có cảm xúc khác nhau
Khoảng lặng
Sương Khói Mây

Cõi riêng riêng có một mình
Tâm tư ai hiểu một mình cõi riêng !
. …
Thoảng nhẹ thôi chút ngọt ngào
Có mùi yêu dấu có lao xao
Không đề
Vĩnh Thanh

Sau cay đắng chắc sẽ là vị ngọt
Yêu đời đi, yêu hết thảy mọi người
Sau cái chết chắc sẽ là sự sống
Thiên thu nào, ắt sẽ sinh sôi
Tư dỗ mình
Sói Đá

Đi dọc sông đời
Đếm từng xuân trôi
Đi dài những nổi
Nến tình đầy vơi
Chút suy tư
Nguyễn Thành Nhân

Đêm nay biển ơi
Sóng cồn dữ dội
Giờ nầy bão nổi
Gió cuốn tơi bời

Em như biển đời
Còn anh biển rộng
Trăng tàn gió lộng
Bão cũng đi xa
Biển đêm
Hồ Thanh Tịnh

Em xin một chút đam mê
Bên nhau đắm đuối …khát khao ái tình
Em xin gió hãy lặng thinh
Để tình hai đứa êm đềm ngày đêm
Em xin
Nguyệt Dương

Sự thăng hoa cảm xúc có thể đến bất chợt khi nhà thơ chưa ngồi trước bàn phím hay cầm bút.Tôi đã gặp lại Từ Kế Tường, Linh Phương, Hồ Chí Bửu, Hoàng Anh Tâm, Ngũ Yên… Những nhà thơ từng được xem là sứ giả của tình yêu và cuộc sống, giờ đây lại tiếp tục tiếp sức cho thơ facebook để bồi đắp, tiếp tế năng lượng cho tâm hồn, không chỉ cho một người mà cho nhiều người

Mười sáu tuổi em nuôi dài mái tóc
Để ngày xưa ở lại phía sau lưng
Ve cuối hạ kêu vàng trang vở học
Tình tôi trao trên cánh phương rưng rưng
Em mười sáu
Từ Kế Tường

Cầm tay
mà nhớ như điên
Đuôi con mắt biếc
thuyền quyên
rất tình
Sài Gòn bỗng chốc
lặng thinh
Khi nhìn hai đứa
chúng mình hôn nhau
Sài Gòn ngày anh hôn em
Linh Phương

Thêm mùa đông nữa buồn thiu
Vắng chi vắng ngắt xó chiều riêng tôi
Lơ ngơ ngó lũng ngó đồi
Nương trà xanh đấy mà người xanh đâu
Mùa phố dã quỳ
Nguyeễn Đăng Trình

Tôi đi tìm lại người dưng
Một thời lỡ dại ngập ngừng nói yêu
Tôi đi tìm lại buổi chiều
Buổi chiều đã để cho diều đứt dây
Đi tìm
Hồ Chí Bửu

Ta chở hồn ta về bến lạ
Vô minh một cõi, ngủ yên thôi
Dáng hoa, hài cỏ, đôi chân hạc
Cánh khói, sương mây nẻo cuối trời
Hư vô
Hoàng Anh Tâm

Mộng rớt bên sông tóc bạc màu
Về đi thôi ! Vội chiều bóng câu
Ngày trôi tàn cuộc đời hoang hoải
Quay quắt lòng ai cuộc bể dâu
Tứ tuyệt
Khôi Nguyên

Một ngày em bán rẻ ta
Ta thành vật lạ giữa nhà người dưng
Một ngày em đến rưng rưng
Mua gì vố giá xin đừng mua ta
Vô giá
Qua Xuân Nguyễn

Ta chờ em
đợi gió
gọi sương mù
mây giăng thấp cuối trời
Đất mũi
mây giăng thấp chưa đủ tầm tay với
nên suốt đời
ta cứ mãi yêu nhau
Yêu em Cà Mau
Thiên Hà

Nhìn vào gương xem thử
Khuôn mặt mình thế nào
Vẫn không gì khác lạ
Vẫn như ngày hôm qua
….
Măt mũi không có gì
Sao trái tim vẫn đau
Từng vết bầm sâu thẳm
Ê ẩm những đêm dài

Ta vẫn còn khao khát
Sống lại thời yêu thương
Tim ơi, đừng ngại nữa
Hãy hồi phục nhanh hơn
Soi Gương
Ngũ Yên

Post thơ trên facebook và được bình luận tự do nên trang nầy, sự thăng hoa cảm xúc của các nhà thơ đã khẳng định tên tuổi từ thập niên 70 thế kỷ 20 có thể đến bất chợt đến khi nhà thơ ngồi trước bàn phím hay cầm bút để hoài cảm, hoài niệm về một thời đã yêu, đã sống, giờ đây vẫn tạo được sự kết nối rộng rãi cho cộng đồng mạng facebook qua số lượt lick và comment Đó là một sự lan toả rộng và sâu trong lòng người đọc.

Thơ facebook cũng tạo suy nghĩ tác giả nghĩ nhiều hơn cảm khi làm thơ, ngẫm sâu, nghĩ kỹ thì cái sự nghĩ nhiều đó của không ít bài thơ trên mạng nầy không thể không mang rung động của người sáng tác, nói chi đến người đọc. Thơ vần, thơ không vần, thơ văn xuôi, truyền thống hay hiện đại cũng đều không vượt ra khỏi quy luật của cảm xúc, sự thăng hoa xuất thần của tâm hồn, là cơ hội để người sáng tác tìm gặp được những ý thơ, tứ thơ, câu thơ, bài thơ hay.

Đắm đuối đi…tiếc nuối gì ?
Rồi mai phút cuối…chia ly nghẹn ngào !
Tình còn lại những hư hao
Tháng năm ta tiễn hồn vào cõi mơ
Tiếc bên anh…tiếc hững hờ
Tiếc bàn tay nắm ngu ngơ…vụt tình !
Tiếc xuân qua…tiếc đời mình
Tiếc trăm năm để lạc hình bóng yêu.
Không đề
Thuỷ Nguyễn

Hà thành đêm lộng gió
Hoa sữa thơm hương đêm
Trăng Hà thành rụng xuống
Ngủ quên trên Hồ Gươm
Đêm Hà thành
Hoàng Thanh Tâm

Từ ngày Huế chẳng còn em
Mô răng chi rứa người đem giấu rồi
Bờ ao bụi chuối tôi ơi
Trổ buồng ly biệt cạn lời nhớ nhung
Từ ngày
Tiếng thời gian

Người ta đang nói nhiều tới sự cách tân trong thơ. Cách tân! Muốn thơ có mặt trong cuộc sống đương đại và cả mai sau nữa, không còn con đường nào khác phải cách tân. Nhưng sự cách tân không phải là đổi trắng thay đen, đánh tráo khái niệm, tôn vinh thác loạn, đưa hủ bại lên ngôi. Sự cách tân không phải là đốt quá khứ trong nỗi ngông cuồng được trở thành sao chói lọi trên bầu trời thi ca. Cách tân xa lạ với tuỳ tiện, cẩu thả, rối mù, hủ nút, đánh đố người đọc. Cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ văn học cũng chẳng cảm nhận nổi, không hiểu được tác giả nói gì trong bài thơ của họ. Chớ lầm tưởng rằng thơ hiện đại, thơ mới phải là thơ khó hiểu; thơ dễ hiểu thuộc về kiểu thơ cũ, thơ truyền thống.

Poet Hansy là một trong số các nhà thơ thuỷ chung với thơ vần điệu truyền thống

Trăng gió hữu tình huyễn ảo mây
Thoảng mơ dìu dặt nét mi gầy
Giăng nguyền thệ hải chao chùng ấy
Phả ước màn chăn hứa hẹn này
Rằng tỏ dạ tâm lờ lững ngậy
Nữa lèn thân não ngọt ngào lay
Hằng nga diễm tuyệt ngời cung cấm
Chăng sợi ái tình quáng mộng đây
HUYỄN KHÚC
Poet Hansy

Có gì là cũ đâu, lại còn độc đáo ở chổ bài thơ nầy của Poet Hansy là có thể đọc thuận hoặc đọc nghịch đếu được.

Thực ra khó hiểu hay dễ hiểu không phải là tiêu chí của thơ, mà thơ hay chính là sự lay động người đọc ở cảm xúc mạnh, ở tính đa nghĩa của hình tượng, ở sự hợp lý đắc địa của ngôn từ. Giá trị của thơ nằm ở việc phát hiện vấn đề, tìm và dựng tứ độc đáo, ở tính sáng tạo trong thiết lập cấu trúc bài, chọn lựa hình tượng khác lạ, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ nhuần nhuyễn đổi mới thơ và đề tài thơ.

Gặp trong thơ facebook với thơ Hoàng Thanh Tâm, ngoài đề tài muôn thủa là tình yêu, Hoàng Thanh Tâm đang làm mới từ đời thường của nội trợ thành thơ.

Bún riêu, bún ốc, bún thang
Bún cá Lã vọng họ hàng bún ta
Đi đâu cũng nhớ quê nhà
Sợi bún trắng nõn đậm đà hương quê
Bún ta
Hoàng Thanh Tâm

Thơ cần sự sáng tạo lại ngoài tác giả, để được truyền cảm, nhân lên trong những cảm thông, bênh vực, nâng đỡ không ngừng. Thơ gắn với đời, trong những lấm láp ruộng đồng, trong mặn mòi biển cả, trong khuất lấp nẻo rừng, trong xô bồ phố thị với từng hớn hở hay đớn đau của cuộc sống, bắt đầu từ một đến mười, mười đến một trăm rồi nghìn, vạn, triệu. Loại bỏ những chen lấn của thơ con cóc, thơ bí hiểm trong thơ faecbook, bởi nó là mặt chìm, ẩn trong mặt nổi của trong phong trào thơ facebook hiện nay, tôi muốn nói. Thơ facebook đã đang và sẽ tiếp tục đến với cộng động một cách mạnh mẽ nhất.

Bài viết nầy chưa đề cập hết các tác giả có thơ hay trên facebook, mong được thông cảm. Hẹn gặp trong bài viết sau sẽ đầy đủ hơn.

NGUYỄN VĂN THIỆN
[Nhà báo]

https://1.bp.blogspot.com/-CcZNzeS92U0/YLYa62RjxUI/AAAAAAACQYA/fYZBtgzQtyAIGU6ZEOJXdM5FopbRqCXPQCLcBGAsYHQ/w640-h451/%2540.1.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG CON CHỮ


Người bạn trẻ hỏi tôi: Làm thế nào để trở thành nhà văn? Nghề văn bắt đầu từ đâu? Tôi đáp: Từ sự yêu thích. Người bạn trẻ bảo: Tôi yêu thích. Tôi lại nói: Thế thì bắt đầu từ năng khiếu. Người bạn trẻ lại bảo: Tôi có năng khiếu. Ồ, nếu cái gì bạn cũng có rồi thì có lẽ nghề văn bắt đầu từ… chữ.
1.
Có lẽ không có nghề nào trên đời này mà công cụ lao động lại đơn giản như nghề văn. Trong khi anh thợ mộc phải sắm cưa, bào, đục; anh thợ may thì sắm máy may, thì nhà văn chỉ cần một cây viết và một xấp giấy đã có thể ung dung hành nghề. Tất nhiên, sang hơn nữa thì xài computer, nhưng nếu không có những máy móc cồng kềnh đó, giấy và viết kể như đã đủ. Cũng như nếu không có xe gắn máy hay ôtô, con người vẫn có thể đi lại bằng chiếc xe đạp cà tàng. Xem ra, yêu cầu về công cụ của nghề văn còn thấp hơn những nghề lao động bình dân như đánh giày hay sửa xe đạp.

Nguyên liệu của nghề văn còn đơn giản hơn nữa. Thợ mộc cần gỗ, thợ may cần vải, thợ hồ cần xi măng, còn nhà văn chỉ cần… chữ. Mà chữ là thứ nguyên liệu chẳng bỏ tiền ra mua. Chữ lềnh khênh trong các cuốn sách, ngổn ngang trên các trang báo. Chữ lấp lánh trên các trang web, thậm chí trên trên các bảng hiệu dọc phố, cả trên những cột điện hay những gốc cây. Thư la rầy của cha mẹ, thư đòi nợ của ngân hàng, thư đòi chia tay của người yêu cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu đối với nhà văn. Vì trong đó có chữ.

Tiếng nói là chữ được phát thành âm thanh; nghe thiên hạ trò chuyện, cãi vã hay mắng nhiếc nhau cũng là cơ hội để nhà văn thu thập nguyên liệu.

Vậy nguyên liệu của nghề văn ở khắp mọi nơi. Và hoàn toàn miễn phí, nếu cuốn sách ta đọc là mượn của bạn bè hay của thư viện, tờ báo ta đang xem là của ông hàng xóm hay trên giá báo của cơ quan.
2.
Nhà văn tất nhiên phải giỏi dùng chữ. Vì yêu cầu đầu tiên trong thao tác chữ nghĩa của nghề văn là phải chính xác. Giống như đường kim của thợ may hay viên gạch của thợ hồ, đặt lệch một ít có khi đi lệch hơn một dặm. Ví dụ đơn giản nhất, nhà văn phải dùng một cách phân biệt từ thánh thót khi nói về tiếng dướng cầm và từ réo rắtmô tả tiếng vĩ cầm. Cũng như vậy, bập bùng để chỉ tiếng đàn ghita và véo von dành cho tiếng tiêu, tiếng sáo… Đều là nhạc cụ, nhưng sắc thái âm thanh của từng loại khác nhau rõ rệt. Cũng như sự khác nhau giữa tiếng ăng ẳng của chó, tiếng quang quác của gà và ủn ỉn của lợn mà chúng ta nghe thấy hàng ngày.

Muốn vậy phải có nhiều chữ để dùng. Giàu chữ, đó là lời khen với một người làm nghề văn.
3.
Làm sao biết mình có giàu chữ hay không? Thiết tưởng để biết điều này cũng không khó lắm. Đọc hàng trăm cuốn sách, đọc hàng ngàn tờ báo, thấy chỗ nào cũng hiểu, chữ nào cũng biết, hiển nhiên bạn là người giàu chữ. Tất nhiên, có thể bạn sẽ gặp một vài khó khăn khi gặp những thuật ngữ chuyên môn về tôn giáo, triết học, y học hay khoa học kỹ thuật, nhưng các từ điển chuyên ngành sẽ giúp bạn tra cứu và qua đó, bổ sung thêm nguyên liệu cho nghề của bạn. Như vậy, muốn giàu chữ phải đọc nhiều, phải siêng đọc.

Nhưng người biết kiếm tiền chưa hẳn là người biết cách xài tiền. Nghề văn cũng vậy, kiếm chữ thì dễ mà dùng chữ mới thiệt là khó. Khó ở chỗ bạn biết chắc bạn có rất nhiều chữ trong bộ nhớ nhưng đến khi cần dùng thì tìm hoài không ra, không biết nó nằm ở ngóc ngách nào trong đầu bạn. Hệt như khi cần mua đồ mà bỗng nhiên bạn lại không tìm thấy ví tiền trong túi, thiệt là éo le!

Chữ nghĩa trong đầu xét cho cùng cũng na ná như áo quần trong rương hay trong tủ. Nếu bạn lười, bạn sẽ chỉ mặc đi mặc lại vài bộ xếp ở trên, treo ở ngoài, trong khi ở dưới đáy rương hay trong góc tủ, nếu bạn chịu khó lục lọi, bạn sẽ thấy có những chiếc quần, chiếc áo đẹp đến mức bạn phải sửng sờ. Bạn sẽ trố mắt ngạc nhiên: Chiếc áo đẹp thế này sao lâu nay ta không lấy ra mặc nhỉ!

Chữ cũng vậy. Thông thường con người có thói quen dùng những chữ mà thường ngày mình vẫn dùng. Những chữ quen thuộc đó có cái tiện là khi bạn cần, chúng hiện ra ngay, thậm chí không cần bạn kêu gọi, thúc giục hay năn nỉ. Những chữ đó được gọi là những từ ngữ thông dụng. Các loại sách ngoại ngữ loại 1.000 từ - 2.000 từ được xây dừng trên những từ loại này. Trong trường hợp này, khá phổ biến, đã chỉ ra rằng trong thực tế bạn chỉ dùng 1/10, thậm chí 1/100 hay 1/1.000 số vốn từ mà bạn có, hoàn toàn lãng phí. Giống như bạn đang sở hữu 1 triệu đồng mà khả năng sử dụng trên thực tế chỉ có một vài ngàn đồng. Trong tư cách nhà văn, chính sự lười nghĩ đã niêm phong tài khoản từ ngữ của bạn khiến bạn không thể huy động tối đa vốn liếng của mình.
4.
Dĩ nhiên sẽ quá khắt khe nếu yêu cầu bạn phải nghĩ ngay ra con chữ thích hợp hoặc cần thiết phục vụ cho sự hành văn của bạn. Điều đó đòi hỏi một trí nhớ, đặc biệt là một sức liên tưởng mạnh mẽ và phong phú. Bản thân tôi mà nhà văn, đã viết nhiều sách, nhưng không phải lúc nào tôi cũng tìm thấy những con chữ như ý muốn. Tôi không biết các nhà văn khác làm như thế nào, riêng tôi, tôi khắc phục bằng cách ghi chép. Khi bắt gặp ở đâu đó một từ hay hay mà tôi chưa biết, hoặc một từ đã biết mà ít khi dùng, tôi đều ghi lại và tìm mọi cách để đưa nó vào trang văn của mình. Thỉnh thoảng tôi cũng hay lật từ điển, không phải để tra mà để xem, lang thang trong đó hàng giờ, giống như các bà nội trợ vẫn hay đi xem (chứ không phải mua) hàng hoá ở các siêu thị lộng lẫy và đồ sộ.

Từ điển là một cuốn sách tập hợp một lượng từ ngữ khổng lồ, vào đó như một kho tàng. Bạn sẽ tìm thấy trong đó những từ ngữ quen thuộc, những từ ngữ ít dùng, thậm chí những từ lạ lẫm đến nỗi bạn tin chắc là bạn chưa gặp qua bao giờ. Gấp cuốn từ điển lại, giống như các bà nội trợ ra khỏi siêu thị, bạn sẽ thu hoạch được nhiều thứ. Bạn nhớ lại được nhiều từ mà bạn đã quên từ lâu, học thêm những từ mới, hay nghĩa mới của một từ cũ, và dĩ nhiên là bạn sẽ nghĩ ra cách dùng những từ đó, mặc dù có thể không phải ngay hôm nay hay ngày mai. Các bà nội trợ cũng thế thôi, họ ngắm nghía hàng giờ trong siêu thị rồi đi ra tay không, nhưng những món hàng hấp dẫn, thậm chí cả giá cả lẫn vị trí của chúng, đã khắc sâu trong tâm trí họ. Một lúc nào đó, cần tới, họ sẽ tìm ngay được cái họ cần.

Nói tóm lại, đó là một cách rèn luyện tri óc, một kiểu thể dục tinh thần, và theo tôi là vô cùng quan trọng với những ai có ý định hành nghề bằng những con chữ.
5.
Nhưng chữ chỉ là chữ, nếu không có nghĩa. Chữ luynh và nguynh rõ ràng vẫn là chữ, nhưng nó không có nghĩa. Nó chỉ là một ký hiệu không chứa thông tin nào, hoặc nói dè dặt là không chứa thông tin nào rõ rệt. Chữ là phương tiện để giao tiếp, diễn đạt, nên buộc phải có nghĩa. Chúng ta vẫn nghe nói chữ nghĩa đó thôi.

Chữ chứa nghĩa như con thuyền chứa món đồ mà nó chuyên chở. Nó không phải là con thuyền rỗng không. Từ đó bạn có thể tự suy ra, tuy chữ là nguyên liệu của nhà văn nhưng chỉ ở khía cạnh hình thức. Nguyên liệu thực sự là cái những con chữ chuyên chở, tức là nghĩa. Nói khác đi là những ý tưởng.

NGUYỄN NHẬT ÁNH
[Nhà văn]


https://www.facebook.com/groups/DUONGLUAT.XUONGHOA
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFp_YpZlQl9eML1IZ98C-6K7zqH7ojQiCMm_FZKGb6cpGP4xrIHWpYHM65NQnZ92S-vjWAqPo52CS2GRuLIYfP0eABXx4hSdUIxvui-jR2MRUMEIxTYjRZKfd6cLvT0NXd124OTEkIpYdEqhbzu5rbJpu4_JcKrK_3NzQInnOV6BnER3q5QBmEJIjCHQ/w640-h246/@-1-blog.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Ý TƯỞNG


… Tôi ngẫm ra rằng. muốn có ý tưởng, trước hết phải biết cách kiếm tìm. Phải đam mê, phải khao khát, phải bị cuộc đời thúc giục.
1.
Sau mấy chục năm đèn sách, bài học đầu tiên tôi có được chính là điều “đơn giản” nhất trên thế gian này: Đọc.

Đọc không ngừng nghỉ, đọc trước giấc ngủ; đọc cả khi các bộ phận khác của cơ thể làm việc còn cái đầu thì chẳng có việc gì để làm… Tóm lại, đó là một quy trình tất yếu của việc tích luỹ kiến thức. Chừng nào việc đọc thật sự trở thành một phần không thể thiếu của cuộc đời, chừng đó mới có thể có được cái ta vẫn gọi là ý tưởng.

Việc đọc nhiều đem đến biết bao điều lợi. Trước hết, nó giống như mảnh đất được người làm vườn dày công chăm sóc, dù một ngày chỉ một ít, nhưng mảnh đất ấy rồi sẽ màu mỡ hơn!

Nói cách khác, đây cũng là cách chuẩn bị cho một mầm cây mới là ý tưởng sẽ trở nên xanh tốt. Điều tiếp theo là nhờ đọc mà ta biết được những gì người trước đã làm, đã viết. Nếu không, đôi khi ta vô tình trở thành một kẻ đạo văn “chân thành”! Chân thành trong trường hợp này chẳng khác gì ta tự gọi mình là một kẻ dại khờ. Thứ ba, những gì chúng ta đọc và hiểu chẳng khác chi một tập mờ như các nhà toán học vẫn gọi, hay giống câu chuyện con trâu để trước cái cày.

Tóm lại, chúng là những mảnh rời rạc trong khi bài viết nào cũng đòi hỏi nguyên tắc tối thiểu là phải biết cách để xâu chuỗi, liên kết những mảnh rời rạc đó.

Ý tưởng hay vấn đề mà người viết muốn diễn đạt phải đúng và phải khác so với những gì từng được diễn giải. (Rất nhiều bài viết của tôi – thậm chí là những bài tôi tâm đắc – không một nơi nào đăng (?) Mãi sau này tôi mới hiểu ra rằng, cái mà tôi nghĩ là ý tưởng thật ra đã cũ và sáo lắm rồi!).
2.
Ý tưởng đôi khi như một “coup de foudre” – “tình yêu sét đánh”. Nó đến bất ngờ và nghẹn tắc tới từng hơi thở. Ta ngỡ giống như Chúa ở trên cao thương xót kẻ bần cùng. Ta như con kiến vàng bơi lỏng chỏng trong mưa lũ giăng giăng mà ý tưởng là cọng cỏ khô ta bám được tình cờ.

Nhưng quả thực rất nhiều khi ý tưởng giống với cuộc tình vô vọng, càng kiếm tìm càng lẫn khuất mù xa. Có những ngày tôi chỉ biết thở dài bất lực vì không biết viết từ đâu và viết về cái gì.

Tôi đi gặp bạn bè để giãi bày. Thì ra ý tưởng có thể có sau vài ly rượu nồng. Một cuộc hàn huyên của những cái đầu là vô giá. Miễn ở đó có sự cởi mở, chân tình. Ta nói không cần phải đắn đo, và người nghe cũng chẳng hề chấp nhất. Ý tưởng nằm ở đường chân trời. Trong trường hợp này, nó giống với tia nắng cuối cùng vụt sáng và ta phải thấy trước khi nó vụt tắt.
3.
Ý tường là gì?
Câu hỏi khó nhất trong những câu hỏi xung quanh ta mỗi ngày. Nó có thể chỉ là một vệt sáng lập loè của đom đóm; tắt rồi hiện, đều đều. Đó là cái ta cần mà không thể nắm bắt được. Hay nói chính xác hơn, ta chưa có đủ chiếc vợt kiến thức để bắt con đom đóm ấy.

Thi thoảng, ý tưởng thật giống một đám mây. Ta thấy nó rõ ràng nhưng chỉ trong khoảnh khắc sẽ lướt nhanh qua. Khi nó trôi qua, đã thay hình, đổi dạng mất rồi.

Có những khi, ý tưởng đến và nằm lỳ trong góc tối của tri thức. Mọi cách làm cho nó tỉnh giấc chỉ là vô vọng. Đó là khi ta cố tình không hiểu rằng, cái nền hiểu biết chưa đủ để gọi dậy cả một khoảng tối mịt mùng. Ánh lửa của một que diêm làm sao có thể đẩy lùi khoảng vắng của đêm đen?
4.
Ý tưởng luôn là người bạn đường khó tính. Điều ta tận nghĩ hôm nay rất có thể sẽ trở thành điều cạn nghĩ của ngày mai. Không chỉ có một người trăn trở mà có hàng triệu người không ngừng nghĩ suy, trang trải qua từng con chữ. Và trong số đó, ta luôn là một trong những kẻ đứng sau cùng.

Quy tắc này là điều sẽ làm nên sự tốt đẹp của cuộc sống và hiểu biết. Chính vì thế, để ý tưởng trở thành một điểm sáng dễ đồng thuận, rất cần sự khác. “Sự khác” cũng giống như ánh mặt trời trong cơn mưa: có thì vẫn có nhưng hiếm hoi và khó hiểu lắm. Ranh giới giữa cái đúng thì không mới; cái mới thì không đúng – như cách nói của GS Hà Văn Tấn trong những năm bảy mươi của thế kỷ hai mươi – cho đến tận bây giờ vẫn còn khó hiểu. Cái đúng-mới nào mà chẳng khó hiểu? Nên nếu có ai đó nhận nhìn nó sai là chuyện muôn đời. Tất nhiên, cái đúng-cũ mãi mãi là kẻ thù của ý tưởng.
***
Một nhà văn Pháp nói rằng, ý tưởng là một món hàng cực kỳ dễ hỏng, nếu không kịp dùng ngay, nó sẽ hư nát tức thì.

Tôi nghĩ đầy là một câu nói hay và thật đúng. Đã không ít lần tôi nghĩ ra một cái gì đó, nhưng vì lười biếng lại tự hẹn với lòng là để đến mai. Nhưng cái ngày mai ấy không bao giờ trở lại nữa (!). Nếu có một ý tưởng hay, hãy học cách của chim đại bàng, cắm thẳng đầu xuống, cho dẫu khoảng không ta lao đến vẫn là một cõi mù mờ, cho dẫu “con mồi” đang nhảy nhót trên mặt đất – cuộc đời đầy trắc trở…

TÔ VĨNH HÀ
[Nhà văn]

https://www.facebook.com/PoetHansy
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMTfxno29Js9kn-bhCTAf_KiRyfH8GdovolRBSGnv-pt2b3tLH5zmo10cCAyGzbzikVkbxmhEaMpqEsMvVGSm-TQs__EIc3iVhDjJVW5mmRaBRDyM7ntyi0Z7gHzauU5sVbuL1spCe8GVqX7f3GcroVmEHvMbFNjEDkiyr_kpVKr8ivgRbfjznsr9ziA/w640-h243/@-4-blog.PNG

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

47
ÁO LỤA VÀNG

Từ em mặc áo lụa vàng
Nắng nghiêng ngả phố, mưa bàng hoàng theo.

Từ anh một cõi hắt hiu
Cũng nghe sửng sốt bao chiều nhớ thương
Lụa ơi, sao cứ bồn chồn
Đêm đêm anh mở cửa hồn… đợi em!

Từ em vén mớ tóc tiên
Gió mê muội gió, anh điên đảo đời!
Mắt em là ánh sao trời
Đèn khuya anh chết… tuyệt vời biết không?

Lâu rồi ôm mối tình câm
Biết chắc Vực Thẳm… vẫn xăm xăm tìm.

TRẦN DZẠ LỮ
[Thơ Tình Viết Trên Bao Thuốc Lá – NXB Hội Nhà Văn-2014]
*
Tình yêu muôn đời vẫn là một Giai nhân Vĩnh cửu, không hề có tuổi! Lại càng chính xác và chân lý hơn khi được nhìn dưới ánh mắt của một thi nhân. Mở cửa vườn yêu nào cũng thấy rộn rịp sắc màu thanh xuân tươi trẻ ngồn ngộn sức sống của lứa tuổi hai mươi. Chả thế mà Nhà thơ TRẦN DZẠ LỮ của chúng ta qua ÁO LỤA VÀNG dẫu tuổi đời đã vắt qua hai thế kỷ vẫn nhìn tình yêu sau lăng kính màu… vàng của hình ảnh xa xưa nào đó luôn ẩn chờ trong ký ức tình yêu.

Từ em mặc áo lụa vàng
Nắng nghiêng ngả phố,mưa bàng hoàng theo

Mảnh lực tình yêu thật vô song và kỳ diệu! Nó chiếu rọi đến đâu thì hoa lá chim muông cây cỏ vạn vật thảy đều thay da đổi thịt liền liền. Ngay với một tâm hồn đang ủ rủ xanh xao queo quắt cũng bừng tỉnh hồi sinh nhanh chóng khi được “tia laser” của nữ thần Venus chiếu vào.

Từ anh một cõi hắt hiu
Cũng nghe sửng sốt bao chiều nhớ thương

Những lấp lánh của ánh sáng tình yêu không chỉ đem tâm hồn ra khỏi bến bờ tuyệt vọng mà còn làm cho con tim tưởng đã héo tàn đó đâm chồi nẩy lộc dặt dìu theo những giai điệu ngọt ngào của khúc tình ca.

Lụa ơi, sao cứ bồn chồn
Đêm đêm anh mở cửa hồn… đợi em!

Và rồi trong mắt ta, khi đó người tình hình như không còn là những kẻ phàm trần nữa mà đã biến thành hư hư thực thực, ảo ảo chân chân, tiên trần lẫn lộn, thậm chí như là ảo ảnh của cánh Anh túc mê hoặc lòng người.

Từ em vén mớ tóc tiên
Gió mê muội gió, anh điên đảo đời!

Và đôi mắt: “Mắt em là một dòng sông/ Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em (LTL)” luôn là cửa ngõ tâm hồn khiến ta tự nguyện hiến dâng trái tim khi đắm lòng vào đó

Mắt em là ánh sao trời
Đèn khuya anh chết… tuyệt vời biết không?

Mà có ngờ đâu một ánh mắt tự thuở nào xa xôi tít tắp trong quá vãng vàng son của tình yêu cứ mãi đồng hành cùng ta theo tháng năm thăng trầm cuộc thế mà lâu lâu ngoái lại cứ nghe như đâu đó văng vẳng âm vang của sự nuối thầm.

Lâu rồi ôm mối tình câm

Dẫu thế người ơi, biết là mơ mộng hảo huyền, là chỉ những âm vang yều ớt của tình si của một thời vang bóng, bởi người xưa giờ đã tay bế tay bồng, ta cũng đã vào khuôn vào phép của dòng đời, nhưng có sao đâu khi trái tim ta mãi mãi hồng tươi những ánh đom đóm của ngày xưa Hoàng thị.

Và cho dẫu ngay từ ngày mới choáng váng và tê dại bởi lửa tình si đã kịp nhận ra mãi mãi mơ ước này chỉ là một niềm hoài vọng đơn chiếc không bao giờ trở thành hiện thực nhưng vẫn một đời giong ruỗi kiếm tìm cái ảo tưởng mê màng đó.

Biết chắc Vực Thẳm… vẫn xăm xăm tìm

Có lẽ Áo Lụa Vàng là một hình tượng không bao giờ phai nhoà trong ký ức tình yêu của nhà thơ tình Trần Dzạ Lữ. Hình ảnh này vắt qua hai thế kỷ làm thơ của anh cho thấy một nét đặc trưng riêng khi anh nghĩ về người tình.

Vì thế, với Trần Dzạ Lữ, Tình yêu không bao giờ già. Và Áo Lụa Vàng của người yêu không bao giờ cũ!

HANSY
*
Vỹ thanh
Hân hạnh được Nhà Thơ Trần Dzạ Lữ gởi tặng Tập thơ Thơ Tình Viết Trên Bao Thuốc Lá (NXB Hội Nhà Văn-2014) khi mới xuất bản mà cho đến hôm nay HANSY mới có cơ hội đọc kỹ càng và chiêm nghiệm sâu hơn về Tác phẩm này.
Với người yêu thơ ở miền Nam trước 1975 không ai xa lạ gì với dòng thơ tình chải chuốt ngọt ngào lãng đãng và điêu luyện của Trần Dzạ Lữ.
Đọc xong, HANSY ngạc nhiên trước việc một nhà thơ sống vắt qua 2 thế kỷ với 55 năm sáng tác thơ tình mà hôm nay dòng cảm xúc tình yêu trong anh vẫn giữ nguyên vẹn sự nồng nàn tha thiết, ngồn ngộn cảm xúc bay bướm lãng mạn như những bài thơ tình đầu tiên anh sáng tác.
Hy vọng khi có lực hơn, HANSY sẽ viết đôi giòng giới thiệu kỹ hơn về Tập thơ ưa thích này.
*
Vài nét về Nhà thơ Trần Dzạ Lữ
-Bút danh: Trần Dzạ Lữ
-Tên thật: Trần Văn Duận
-Quê quán: Ngọc Anh – Huế
-Hội viên Hội Nhà văn Tp.HCM
-Email: trandzalu@yahoo.com

-Bắt đầu viết từ năm 1960
ĐÃ XUẤT BẢN
-Hát dạo bên trời (NXB Trẻ-1995)
-Gọi tình bến sông (NXB Trẻ-1997)
-Thư tình viết trên bao thuốc lá (NXB Hội Nhà Văn-2014)
SẼ IN
Thánh đoạ
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

48
BƠ VƠ LỤC BÁT


Câu thơ lục bát còn đây
Giữa chừng để đó không ai thêm vần
Lâu rồi giấy trắng bâng khuâng
Nhớ thương cũng chỉ có ngần ấy thôi!

Tim ơi xin chớ bồi hồi
Vầng trăng đã khuyết chia đôi lời thề
Nửa vần lục bát ngô nghê
Nửa vần còn lại chưa về cùng nhau

Đường đời lạc mất từ lâu
Để cho lục bát nát nhầu nhớ thương
Gối đầu một giấc đoạn trường
Chiêm bao mộng thấy vấn vương nỗi niềm

Bao giờ máu chảy về tim
Để cho lục bát đi tìm cội xưa
Hoa tàn nguyệt lặn sao thưa
Cuộc đời thì vẫn gió mưa hững hờ

Làm sao trở lại giấc mơ
Mòn con mắt đợi bao giờ cố nhân?
Bơ vơ lạc lõng nửa vần ...!

Sao Khuê Nguyễn
**********************
Lục bát là một thể thơ trữ tình phát xuất từ ca dao của dân tộc Việt. Dựa vào âm hưởng nhẹ nhàng luyến láy, đượm đà của lục bát mà các nhà thơ đã đưa đẩy tâm hồn lãng mạn của mình vào khoảng trời bao la mát ngọt của thơ ca.

Nhưng trớ trêu thay, cuộc đời này luôn tồn tại hai mặt đối lập của một thực thể. Vì thế, thật nao lòng khi ta tình cờ ghé vào không gian dỗi hờn – dù nhẹ nhàng nhưng chất chứa không ít bi thương – của những dòng LỤC BÁT BƠ VƠ trong hồn thơ SAO KHUÊ NGUYỄN.

Câu thơ lục bát còn đây
Giữa chừng để đó không ai thêm vần

Như Bến và Thuyền vậy. Bến một đời thuỷ chung dẫu mỏi mòn chờ đợi nhưng thuyền ơi sao cứ xuôi theo dòng nước vô tình đi mãi không về, để hẹn thề xưa cứ nhạt nhoà dần theo năm tháng ngóng trông…

Lâu rồi giấy trắng bâng khuâng
Nhớ thương cũng chỉ có ngần ấy thôi!

Vò võ bó gối thở than thân phận. Trách trời dỗi đất oán nguyệt hận mây… nhưng mà với kẻ có thể đã bạc tình với ta thì rất nương nhẹ, chỉ như làn gió thoảng ngoài cốt làm động lòng thương cảm mà khêu lại ánh lửa ân tình xưa cũ, để thấy rằng cái chất “thương” trong ta sao mà lớn rộng vô cùng và lạ lẫm đến thế.

Tim ơi xin chớ bồi hồi
Vầng trăng đã khuyết chia đôi lời thề
Nửa vần lục bát ngô nghê
Nửa vần còn lại chưa về cùng nhau

Thực và mộng từ khi người đi đã lẫn lộn trong nhau khó lòng phân biệt. Có khi giữa ban ngày chấp chới trong hồn bóng dáng cùa ai kia hiện về làm mờ mịt cả hồn đơn, lắm lúc giữa đêm trường ma mị giật thót lên tỉnh giấc chao chùng trong viễn cảnh Bến-Thuyền tan rã giữa bão tố phong ba của cám dỗ tình đời. Ôi!

Đường đời lạc mất từ lâu
Để cho lục bát nát nhầu nhớ thương
Gối đầu một giấc đoạn trường
Chiêm bao mộng thấy vấn vương nỗi niềm

Dẫu là thế người ơi ta vẫn mãi hoài hy vọng một cuộc tao phùng kỳ diệu để câu thơ mở cửa vườn tình thuở nao sẽ tiếp tục ráp nối những tứ vần ngát lịm của mật ngọt tình yêu. Vẫn nhắn nhủ và khẳng định với người rằng: “Thuyền ơi, có nhớ Bến chăng?/ Bến thời một dạ khăng khăng đợi Thuyền…”.

Bao giờ máu chảy về tim
Để cho lục bát đi tìm cội xưa
Hoa tàn nguyệt lặn sao thưa
Cuộc đời thì vẫn gió mưa hững hờ

… Có thả hồn bay bổng vào cõi mộng du để cố quên thực tại ê chế đang gặm nát con tim tội nghiệp đang thổn thức tiếng lòng tan vỡ thì mộng mơ đó cũng không áp đảo được đau thương muộn phiền đang tứ phía bủa giăng bóp nghẹt cả thể xác lẫn linh hồn. Và thế là ta vẫn cứ lẩn quẩn mãi trong cái ngục tù chật hẹp nhưng tràn đầy thất vọng…

Làm sao trở lại giấc mơ
Mòn con mắt đợi bao giờ cố nhân?
Bơ vơ lạc lõng nửa vần ...!

...........
Lục bát là những điệu vần của tình tự yêu thương. Khi Lục Bát Bơ Vơ cũng là lúc báo hiệu cánh chim tình yêu đang sụm lòng trong gió giông nghiệt ngã của tình trường. Hỡi những cặp uyên ương đã từng trao nhau môi tình mật ngọt, nếu còn muốn có nhau, còn muốn cùng nhau… xin đừng để câu Sáu phải đợi chờ câu Tám ráp vần trong mỏi mòn khắc khoải nữa!

HANSY
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

49
TỎ TÌNH VỚI NGÔN NGỮ


Nói đến cách viết là nói đến tầm quan trọng đặc biệt của ngôn ngữ.

Văn học là nghệ thuật ngôn ngữ, là nơi ngôn ngữ biến thành một nghệ thuật chứ không phải chỉ là một phương tiện truyền thông. Nếu viết là một sự tỏ tình, như một số người đã nói, thì sự tỏ tình ấy, trước hết, phải là sự tỏ tình đối với ngôn ngữ.

Tôi tin là không có một cây bút tài hoa và nghiêm túc nào đến với văn học mà không khởi đầu từ tình yêu đối với ngôn ngữ. Tôi cũng tin là tất cả những sự thành bại của một người cầm bút đều tuỳ thuộc, trước hết, vào sự thành bại của hắn với tư cách là người sử dụng ngôn ngữ. Cảm xúc dồi dào đến đâu thì cũng mặc, tư tưởng thâm trầm đến đâu thì cũng mặc, kinh nghiệm sống có phong phú đến đâu thì cũng mặc, điều người cầm bút cần trước hết vẫn là sự tài hoa trong cách diễn đạt. Có nó, những cảm xúc, tư tưởng và kinh nghiệm kia hiện hữu; không có nó, tất cả đều có nguy cơ bị tan vào hư không.

Viết là đi vào sân chơi ngôn ngữ, ở đó, người cầm bút có những quan hệ khác, chịu những luật lệ khác với những quan hệ và những luật lệ trong đời sống xã hội.

Một ví dụ: làm thơ tình.
Với tất cả mọi người, trong chuyện tình yêu, chỉ có một quan hệ chính: quan hệ giữa mình và người mình yêu.

Với tư cách tình nhân, bất cứ sự diễn tả nào làm cho mình và người mình yêu hiểu nhau, thông cảm nhau và xúc động vì nhau đều được xem là thành công. Những cái bẹo, cái véo, cái cấu, cái phát của Chí Phèo vào đùi hay vào mông Thị Nở, nếu được Thị Nở tiếp nhận như những tín hiệu của tình yêu và sung sướng trước những tín hiệu đó thì chúng vẫn là những biểu lộ thành công.

Nhưng khi ai đó làm thơ về chuyện tình yêu của mình với dụng ý công bố những bài thơ tình đó trên sách báo và muốn những bài thơ tình ấy được mọi người xem như những tác phẩm văn học thì lại khác.

Với tư cách là một tác phẩm văn học, bài thơ - hay bài viết thuộc bất cứ thể loại nào khác - tồn tại không phải như một trạm liên lạc giữa hai hay nhiều cá nhân cụ thể mà như một văn bản giữa vô số những văn bản khác: nó chỉ có thể được đọc, được hiểu, được cảm và được đánh giá trong tương quan với những văn bản khác.

Cầm một bài thơ có câu trên sáu chữ và câu dưới tám chữ, chúng ta không chỉ đọc nó mà còn đọc cả thể thơ lục bát với những ca dao, những Truyện Kiều, rồi những Huy Cận, những Nguyễn Bính và những Bùi Giáng phía sau.

Nói cách khác, từ tư cách tình nhân chuyển sang tư cách thi sĩ, người ta bước vào một sân chơi khác, ở đó, hắn không còn đối diện với người mình yêu nữa mà là đối diện với vô số những kẻ làm thơ tình khác, như hắn; những kẻ sử dụng ngôn ngữ khác, nhưng không hẳn. Dù muốn hay không hắn cũng phải chấp nhận một cuộc đọ sức gay gắt với những người ấy.

Chính trong cuộc đọ sức này, bao nhiêu người đã thảm bại: họ có thể là những tình nhân chân thực và say đắm, nhưng với tư cách là nhà thơ, họ lại là những kẻ nói dối với những bằng chứng rành rành: câu này thì bắt chước Xuân Diệu, câu kia thì hao hao như Thế Lữ, câu nọ thì phảng phất hơi hướng của Hàn Mặc Tử, còn câu khác nữa thì lấy từ cải lương hay các bản nhạc tình hàng ngày vẫn nghe lè nhè trên máy truyền thanh và truyền hình. Khi yêu, họ yêu thật; nhưng khi thể hiện tình yêu ra bằng ngôn ngữ, họ lại tự phản bội lại họ. Nhiều người đã đi đến một sự chọn lựa khôn ngoan: ngoài đời, họ vẫn yêu nhau, nhưng khi cầm bút, họ lại né tránh đề tài tình yêu khi biết chắc là mình không thể chiến thắng trên sân chơi ấy. Cũng như ngày xưa Lý Bạch đã khôn ngoan né tránh việc viết về lầu Hoàng Hạc chỉ vì biết trước là không thể vượt qua nổi bài "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu: "Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc / Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu."

Trong sân chơi ngôn ngữ, người cầm bút thường ở trong những tình thế oái oăm: Nhiệm vụ không thể tránh được của hắn là vừa phải sử dụng ngôn ngữ có sẵn của xã hội lại vừa phải làm mới cái ngôn ngữ đó; vừa tiếp nhận ngôn ngữ như một tài sản chung lại vừa phải tìm cách in cái dấu ấn của riêng mình lên cái ngôn ngữ đó.

Làm thơ hay viết văn, ở khía cạnh này, là cuộc tranh đấu giữa văn hoá và phong cách, giữa cộng đồng và cá nhân, trong đó, tầm vóc thực sự của một người cầm bút được quyết định phần lớn ở khả năng kháng cự lại tầm ảnh hưởng của văn hoá và của cộng đồng.

Đó không phải là một công việc dễ dàng bởi vì ngôn ngữ, tự bản chất, có tính quy ước và bảo thủ: khi cầm bút, phải sử dụng các từ vựng và quy luật ngữ pháp của một ngôn ngữ, chúng ta, dù muốn hay không, cũng phải chấp nhận những bản hợp đồng ngầm bên trong ngôn ngữ đó.

Không chấp nhận những hợp đồng ngầm ấy, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu nhau. Nhưng chấp nhận những hợp đồng ngầm ấy, chúng ta phải đồng thời chấp nhận là khả năng kiểm soát của chúng ta đối với ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng thật hạn chế: những chữ rơi xuống từ bàn tay của chúng ta có khuynh hướng lôi kéo chúng ta đi theo hướng riêng của nó, ở đó, nó có lịch sử và những đồng minh của nó.

Ví dụ, một người cầm bút mở đầu bài viết của mình bằng một câu bâng quơ và cực kỳ đơn giản "Mùa thu đã về", hắn lập tức đối diện ngay với một cái bẫy do chữ "mùa thu" tạo ra. Có phần chắc là những câu văn kế tiếp sẽ là những câu mô tả, hoặc mô tả cảnh vật hoặc mô tả tâm trạng. Mô tả cảnh vật thì hẳn sẽ là những cảnh mây xám, sương mù, mưa bụi, gió heo may, lá vàng, hoa cúc, ngô đồng... với những tính từ quen thuộc như u ám, ảm đạm, lạnh lùng, hiu hắt, v.v... Còn mô tả tâm trạng thì hẳn là buồn rầu, cô đơn, thẫn thờ, bâng khuâng, hay nhớ nhung xa vắng, v.v...

Một cây bút bất tài sẽ bị rớt ngay vào những cái bẫy như thế, viết như những gì đã được mọi người viết và được vô thức cộng đồng chờ đợi. Nhưng trong trường hợp ấy, hắn không viết; hắn bị ngôn ngữ viết. Cái viết của hắn sẽ không bao giờ là một bất ngờ. Đó chỉ là cái viết của quán tính.

Một cây bút có tài năng, ngược lại, sẽ là kẻ, một mặt, tận dụng được bản hợp đồng ngầm của ngôn ngữ, tận dụng bầu khí quyển văn hoá chung quanh ngôn ngữ, tận dụng cái lịch sử dằng dặc đằng sau mỗi chữ hay mỗi ẩn dụ để mở rộng chiều sâu cho sự diễn tả của mình, mặt khác, hắn lại thoát ra khỏi những khuôn sáo có sẵn, tạo được một phong cách mới không lẩn với ai khác. Có thể nói hắn là kẻ biển thủ thành công công quỹ văn hoá của xã hội để làm thành tài sản riêng của mình.

NGUYỄN HƯNG QUỐC
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

50
HÀ NỘI MÙA NÀY


Mùa này Hà Nội lạnh lắm không em?
Tiếng vọng xa xăm chen vào nỗi nhớ
Thoảng nỗi buồn nghe nặng nề hơi thở
Chẳng biết mấy mùa được ở cùng anh.

Nguyện làm sơn ca lảnh lót trên cành
Không duyên phận nên đành mơ cõi mộng
Mang tiếng hát làm niềm vui cuộc sống
Dẫu biết tình mình mỏng mảnh như tơ.

Viết tên anh ẩn trong mỗi tứ thơ
Mùa đông lạnh bơ vơ con phố nhỏ
Ở phương xa có khi nào anh nhớ
Ta đã từng gặp gỡ tự ngàn xưa.

Hà Nội chiều nay lất phất cơn mưa
Làm ướt má em, vừa lau lại ướt
Nỗi lòng này chỉ có mưa hiểu được
Nên hoà từng giọt nước nhẹ nhàng rơi…

Minh Hien
**********
*
Ở hai đầu nỗi nhớ, nắng gió miền Nam thì muốn choàng lên Hà Nội thân thương chiếc chăn nghĩa tình nồng mặn để ngăn bớt nỗi đơn côi trong cái rét ngọt nàng Bân, thì ở phía đầu kia đang vật vã khó chịu trong cái nham nháp của mưa phùn đông lạnh, chỉ ao ước vỗ cánh bay về phương trời đang lồng lộng gió chướng yêu thương…
HÀ NỘI MÙA NÀY thế nào hỡi Nàng Thơ Minh Hiền?

Mùa này Hà Nội lạnh lắm không em?
Tiếng vọng xa xăm chen vào nỗi nhớ

Thảng nhớ triền miên ùa về vây kín con tim đang lẻ loi trên con đường giá lạnh của mùa đông với những khát khao cháy bỏng một vòng tay chắc nịch và ấm áp, một bờ môi nóng đà đượm ân tình, được tựa vào lồng ngực to bè nhấp nhô trong nhịp thở nồng nàn đầy dáng vẻ chở che biết mấy yêu thương. Cùng nghiêng tai lắng nghe nhịp đập rộn ràng của con tim tươi khoẻ luyến láy khúc xuân tình…

Thoảng nỗi buồn nghe nặng nề hơi thở
Chẳng biết mấy mùa được ở cùng anh

Len lén chút tơ sầu vương lên đuôi mắt, bởi ao ước mãi hoài sao cứ vẫn là diệu vợi ước ao. Mà như một linh cảm của định mệnh tình yêu e là sẽ chẳng bao giờ giấc mơ hạnh ngộ bình dị như của bao đôi tình nhân vĩnh viễn không thể trở thành hiện thực được.

Ôi, thật ngán ngẫm làm sao cho cái không gian trở ngăn đầy nghiệt ngã và vô cùng này, cái thời gian chán ngắt dài lê thê dằng dặc của sự ngóng trông chờ đợi một phép mầu của tiên giới. Rủi thay, cái tiên giới của thế kỷ 21 cũng không còn bến bờ để mà dối lòng níu bám. Thì thôi vậy, đành thả hồn vào trong ước mơ viễn vông nhắm mắt đưa chân đổ thừa cho số phận đã an bài…

Nguyện làm sơn ca lảnh lót trên cành
Không duyên phận nên đành mơ cõi mộng
Mang tiếng hát làm niềm vui cuộc sống
Dẫu biết tình mình mỏng mảnh như tơ

Mùa đông nào mà chả lạnh, nhưng cái rét buốt của mùa đông tâm hồn thật là đáng sợ, nó làm cho tím thẫm cả một khuỷnh trời Xuân. Ta trôi trong dòng đời ồn ã mà như đang lạc loài giữa sa mạc mênh mông bão cát châm xuyên hàng vạn mũi kim bén nhọn vào tâm hồn và thể xác mình. Những mảng nhớ cứ dội về làm tức nghẹn cả dòng tim…

Viết tên anh ẩn trong mỗi tứ thơ
Mùa đông lạnh bơ vơ con phố nhỏ

Rồi ngớ ngẩn trốn vào tiền kiếp, lấy cáI mơ hồ sương khói không thực hòng che lấp vá víu thực tại đang nát tan vì vết thương cách trở giữa một mùa đông có một trái tim lòng mà cũng như không.

Ở phương xa có khi nào anh nhớ
Ta đã từng gặp gỡ tự ngàn xưa

Định mệnh đã an bài!
Định mệnh của Tơ hồng Nguyệt lão không chịu se duyên hay lòng ta chần chừ bất định giữa ngã ba đường khiến nghị lực tiêu tán mà trở nên yếu đuối trước nghịch cảnh trái ngang nên không thể vượt bão giông dắt tay nhau tìm về vùng đất hứa? Vì sao ngày xưa ông bà ta thua kém mọi bề mà vẫn dõng dạc “Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”? Còn giờ đây với phương tiện giao thông hiện đại chưa chợp xong giấc ngủ ngắn đã có thể ngã vào lòng nhau trong đắm say hạnh ngộ thì lại là không thể?

*****
Hà Nội chiều nay lất phất cơn mưa
Làm ướt má em, vừa lau lại ướt

Mưa bụi bay bay đầy trời, mưa thương mưa nhớ chan ướt cõi lòng, những giọt lệ tình làm ướt sũng bầu trời thương nhớ. Ngữa mặt lên trời chờ phương Nam gởi chút nắng ấm về hong khô niềm hờn tủi, phơi lòng trước nhớ đợi gió chướng ùa về trong lồng lộng nồm yêu. Để nước mắt ngỡ ngàng khắc khoải xót xa vụt biến thành những hạt ngọc trai lung linh sắc diện diễm ảo của hoan kỳ.

Nỗi lòng này chỉ có mưa hiểu được
Nên hoà từng giọt nước nhẹ nhàng rơi…

Rồi bất giác trong góc sâu thẳm nào đó của tâm hồn có tiếng gió từ miền Nam khe khẽ vọng về: Đứng dậy đốt lên ngọn lửa yêu thương cho toả bừng thực tại hay lẵng lặng cúi đầu chấp nhận đầu hàng số phận phải vĩnh viễn đắm chìm trong màn mưa lạnh đêm đen vĩnh cửu…

HANSY
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

51
VIẾT CHO TÌNH ĐẦU


Trải thơ ở giữa lưng đồi
theo chiều nắng muộn ta phơi chuyện tình
tay ôm nỗi nhớ lặng thinh
chập chờn trang giấy bóng hình người xưa

Chuyện tình ngày ấy ướt mưa
lá thư mực tím cho vừa nhớ nhau
mưa rơi ướt mối duyên đầu
bài thơ quên lãng bên cầu lạnh căm

Ngày em về chốn xa xăm
câu thơ mang nặng một thăm thẳm buồn
cung đàn lạc lối tay buông
ta đi về cõi vô thường tìm nhau

Hong khô cho hết nỗi đau
cho câu thơ cũng bạc màu yêu thương
ta về phố nhỏ mù sương
nhớ quay quắt nhớ chút hương tình đầu

Chiều như một khúc kinh cầu
khóc người xa khuất ngàn câu kệ buồn...

Nguyễn Ngọc Hùng
****************
*
Có một sự lạ lùng là hầu như ai ai cũng khắc ghi sâu đậm về những kỷ niệm tình cảm yêu đương đầu đời của mình trong suốt quãng đường sống còn lại, mà nếu tách bạch ra xét xem kỹ càng thì gần như chẳng thấy có gì đặc biệt trong đó cả. Bởi so với những cuộc tình sau, tình đầu không có những cảnh ân ái mặn nồng, cũng không có những pha kịch tính bão giông gây đứng tim hay được một kết thúc có hậu với rượu nồng, hoa pháo, cau trầu, động phòng hoa chúc…

Thế mà vẫn mãi đau đáu nhớ về mỗi khi con tim trở trời nhức buốt trong quá vãng yêu thương để bật ra những dòng thơ như trong VIẾT CHO TÌNH ĐẦU của NGUYỄN NGỌC HÙNG

Trải thơ ở giữa lưng đồi
theo chiều nắng muộn ta phơi chuyện tình
tay ôm nỗi nhớ lặng thinh
chập chờn trang giấy bóng hình người xưa

Nhớ, nhưng vẫn rất khẽ khàng dẫu lòng cuộn cuồn dậy sóng bởi không muốn bụi hồng phũ phàng hiện tại lấm lem đi cái huyễn ảo ngày nao khi hai trái tim non trẻ thuần khiết ngỡ ngàng lần đầu mở cửa vườn yêu

Chuyện tình ngày ấy ướt mưa
lá thư mực tím cho vừa nhớ nhau
mưa rơi ướt mối duyên đầu
bài thơ quên lãng bên cầu lạnh căm

Té ra cái kết ngày xưa đó không dễ chịu chút nào! Ấy những phút đầu bướm hoa vẫy gọi, nắng vàng rực rỡ, chim muông rỡ ràng… Nào những thốt thề mê lịm trong khói sương diễm ảo của vành môi Venus

Tôi cùng em mơ những chốn nào
Ước nguyền chung giấc mộng trăng sao
Sánh vai một mái lầu phong nguyệt
Hoa bướm vì em nghiêng cánh trao
(Đinh Hùng – Phạm Đình Chương)

Chỉ còn lại những phút giây đắng lòng khi đàn duyên lạc phím, khi người về một phương nào mà ở đó chẳng có chỗ cho ta trú ngụ, không có những khúc nhạc tình ngày nao hai đứa chung lòng hoà điệu. Câu thơ bẽ bàng khi lạc lõng giữa biển trời phù vân không bến đậu, cơn đau cứ làm mê mù đi tất cả những thực tại xót xa khiến cõi hồn chập chờn giữa cõi hư không vắng vẻ

Ngày em về chốn xa xăm
câu thơ mang nặng một thăm thẳm buồn
cung đàn lạc lối tay buông
ta đi về cõi vô thường tìm nhau

Dẫu là vậy tình ơi làm sao xoá nhoà đi cái kỷ niệm diệu huyền của một thời nhớ nhung mị ảo đã hằn dấu trong suốt cuộc đời này. Cứ mỗi lần len lén quay về khung trời xưa cũ thì quá vãng tình đầu lại mưng mủ lên làm rát buốt cả một khung trời dấu ái chỉ còn là vết tích huyễn mờ. Vẫn mãi quại quằn trong thê thiết hương tình kỷ niệm xa xôi

Hong khô cho hết nỗi đau
cho câu thơ cũng bạc màu yêu thương
ta về phố nhỏ mù sương
nhớ quay quắt nhớ chút hương tình đầu

Nhưng tất cả những nỗi nhớ trở giấc muộn màng cộng với niềm tiếc thương vô hạn vẫn không thể kéo thời gian trở về ngày xưa mộng mị để đôi tim son trẻ thuở nao trùng phùng như “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên –Thế Lữ”

Rồi từ đó về sau mang trái đắng
Bàng hoàng đi theo gió thổi thu bay
Anh chờ em không biết tự bao ngày
Để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi
(Bùi Giáng)

Thơ không đủ để gọi dậy một tình yêu nguyên thuỷ đã bị lấp vùi sâu thẳm dưới lớp bụi thời gian khiến lòng ta tan tác giữa ánh chiều tà đang chuyển sậm dần qua màn sương hư ảo tiến về nơi vô định tối hù, nghe vang vọng như một lời trăn trối

Chiều như một khúc kinh cầu
khóc người xa khuất ngàn câu kệ buồn...

HANSY
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

52
ĐỌC SÁCH


Một trong những đam mê lớn nhất trong đời của tôi là đọc. Hầu như toàn bộ thời gian trong ngày của tôi, lúc nhỏ, ngoài việc học, là đọc; lớn lên, ngoài việc đi dạy để kiếm sống, và sau đó, viết lách, cũng dành cho việc đọc. Đọc, với tôi, là một lạc thú không thể thay thế được.

Hồi nhỏ, tôi đọc tất cả những gì tôi có; lớn lên, tôi đọc những gì tôi thích; sau này, khi tôi viết nhiều, hầu như tôi chỉ đọc những gì mình cần. Đọc cái mình có là cái thú của người thưởng ngoạn nhưng nghèo; đọc cái mình thích là cái thú của người thưởng ngoạn khá dư dật; còn đọc những thứ mình cần là cái thú của người nghiên cứu, ở đó, lạc thú có khi không nằm ở việc đọc mà nằm chủ yếu ở việc viết, ở việc chuyển hoá cái của người khác thành cái của mình; một thứ lạc thú khá thực dụng. Đọc như một người thưởng ngoạn là phiêu du vào một thế giới khác, ở đó, người ta tự đánh mất mình bao nhiêu thì càng thích thú và càng trở thành giàu có bấy nhiêu; đọc như một nhà nghiên cứu là tham gia vào một cuộc thu hoạch và biến chế, ở đó, càng tiếp nhận và tiêu hoá được bao nhiêu người ta càng sung sướng và trở thành giàu có bấy nhiêu.

Hồi nhỏ, tôi thích tất cả những cuốn sách nào thoả mãn được sự tò mò của mình; lớn lên, tôi thích những cuốn sách gợi cho tôi cảm giác đồng điệu; sau này, tôi thích những cuốn sách mang lại cho tôi những gì thật mới mẻ, hơn nữa, tôi đặc biệt say mê những cuốn sách xuất hiện dưới mắt như một đối thủ hạ gục tôi ngay tức khắc: Đọc, thoạt đầu, tôi có cảm giác không hiểu gì cả; sau, nhận thức được là mình chưa hoặc không bao giờ viết được như vậy. Cảm giác thua trận, trong việc đọc, vừa có một chút buồn rầu lại vừa có chút ngây ngất khi ngước nhìn lên những đỉnh núi thật hùng vĩ và cao tít tắp, lúc ấy, gần như toàn bộ niềm vui đều nằm ở chỗ: cố trèo lên đỉnh núi ấy. Độ cao của núi trở thành một thách thức. Trèo được chừng nào vui chừng ấy.

Liên quan đến việc đọc, nhiều lúc tôi cảm thấy ghen tị với bạn bè và đồng nghiệp người Úc: Hồi nhỏ, cả hai cùng mê đọc sách như nhau, cùng đọc một số lượng sách giống nhau, nhưng trong khi các bạn tôi, những người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhất, có thể đọc được vô số những cuốn sách hay, không những hay mà còn lớn, không những lớn về phương diện nghệ thuật mà còn lớn về phương diện tư tưởng, những tác phẩm được xem như những điển phạm trong phạm vi toàn cầu: với chúng, người ta có thể tự hào là có kiến thức; còn tôi thì chỉ mê mải đọc cả hàng ngàn cuốn sách nho nhỏ nhàn nhạt, như những ca khúc cải lương, chỉ thay đổi lời chứ không thay đổi điệu: Với chúng, thú thực, tôi cũng chả biết dùng làm gì. Nói cách khác, dễ hiểu hơn: đọc Shakespeare, chẳng hạn, người ta có thêm một cái gì đó có thể sử dụng cả đời; đọc Kim Dung, Quỳnh Dao hay hầu hết các tác giả viết feuilleton trên báo chí miền Nam ngày trước, chúng ta chỉ được một chút quên lãng, nghĩa là chỉ mất thì giờ.

Mỗi lứa tuổi nên có một loại sách thích hợp. Có những cuốn sách nên đọc lúc trẻ và có những cuốn sách nên đọc lúc đã lớn tuổi. Nhiều lúc tôi cảm thấy may mắn là lúc nhỏ, những năm đầu tiên của trung học, tôi đã đọc gần hết sách của Tự Lực văn đoàn và Thơ Mới. Nếu đọc muộn hơn, sẽ chỉ thấy đèm đẹp, càn cạn và nhàn nhạt. Nhưng nếu ở lứa tuổi ấy mà không đọc chúng thì tâm hồn sẽ mất đi rất nhiều thứ, ít nhất là những mơ ước thật trong sáng và những mơ mộng thật nhẹ nhàng.

Ngày xưa, có câu nói của ai đó đã thành danh ngôn: “Họ chỉ sợ những người đọc một cuốn sách”. Có lẽ đó chỉ là một cách nói. Sự thật, không có ai hiểu một cuốn sách, dù chỉ ở mức vừa phải, nếu chỉ đọc một cuốn đó thôi. Người ta phải đọc cả ngàn cuốn sách mới hiểu được sâu sắc cuốn sách đầu tiên họ đọc. Lý do là cuốn sách nào cũng có tính liên văn bản: Nó có hàng ngàn sự nối kết chằng chịt với các cuốn sách khác. Chỉ dừng lại một cuốn sách không khác gì cảnh bị ở tù. Lại là tù biệt giam. Trong hầm kín.

Bởi vậy, tôi rất ngạc nhiên khi nghe, không phải một lần mà là nhiều lần, không phải từ một người mà từ nhiều người: Một số nhà văn lớn tuổi thường khuyên các nhà văn trẻ tuổi hơn là đừng đọc nhiều quá. Hai lý do thường được nêu lên là: Một, đọc kỹ một vài cuốn sách thì dễ có cơ hội đi sâu hơn là đọc cả hàng chục, hay hàng trăm, thậm chí, hàng ngàn cuốn sách; và hai, đọc nhiều quá sẽ bị ảnh hưởng từ người khác, do đó, sẽ đánh mất bản sắc riêng của mình.

Xin nói ngay hai điều: Một, những lời khuyên kiểu ấy, tôi chỉ nghe từ giới cầm bút người Việt; ở Tây phương, có lẽ không có ai nói vậy; và hai, theo quan sát và đánh giá của tôi, những nhà văn thường đưa ra lời khuyên ấy đều lớn tuổi nhưng không phải là những tài năng lớn; tất cả các tác phẩm của họ đều khá nghèo nàn, hơn nữa, đều chịu ảnh hưởng nặng nề của những khuynh hướng cũ mèm chứ không có gì là của riêng họ cả.

Ở Tây phương, ngược lại, hầu như mọi người đều khuyên giống nhau: Để viết hay, trước hết, hãy đọc. Không có nhà văn lớn nào mà không đọc nhiều. Thử đọc các bài phê bình và tiểu luận của các nhà văn và nhà thơ lớn ở Tây phương thì thấy ngay: Họ không những nhạy cảm và có khả năng diễn đạt giỏi mà còn có kiến thức rất rộng và óc phân tích rất cao. Bởi vậy, nhiều người trong họ không phải chỉ là những người sáng tác mà còn được nhìn nhận như những nhà phê bình và lý thuyết gia xuất sắc. Tất cả những điều đó đều đến từ việc đọc.

Nhớ, nhà văn Phạm Thị Hoài, đâu đó, có nêu lên một ý mà tôi rất thích: Ở thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, một nhà văn không có quyền cáo lỗi với độc giả về việc không biết các đồng nghiệp của mình trên thế giới nghĩ gì và viết gì.

Lại nhớ Susan Sontag, đâu đó, có nói một ý rất hay: “Một nhà văn, trước hết, là một độc giả. Chính từ việc đọc mà tôi rút ra được những tiêu chuẩn để dựa vào đó tôi đánh giá các tác phẩm của chính tôi và cũng theo đó, tôi buồn bã nhận thấy tôi còn quá thấp. Cũng chính qua việc đọc, tôi trở thành một phần trong một cộng đồng văn học vốn bao gồm nhiều nhà văn đã mất hơn là những người còn sống.”

NGUYÊN HƯNG QUỐC
25.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 8 trang (78 bài viết)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối