☆☆☆☆☆ 393.90
Nước:
Việt Nam (
Cận đại)
173 bài thơ,
83 bài dịch
30 người thích: hdcadmin, Hoa Phong Lan, shiva, sssssssss, neo_matrix, Mundungus Fletcher, 13ternal, xehi, Hoathaonguyen, LeeAn1982, peihoh, trucnhan, congdan9x, đồng phong linh, Nhất Tự Tà, Phạm Thôn Nhân, Sao Sáng, Trần Dân An, Ducky, Bảo THiệu, anhlng, Gerrard Sy, chumeo_di_hia, Tran Kha, Kha Tran, dang ho lam, Noble, Thiên Lâm, Duy Phi, Mộc Kiên
Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Tạo ngày 16/03/2005 10:45 bởi
Vanachi, đã sửa 3 lần, lần cuối ngày 27/06/2008 00:33 bởi
Vanachi Trần Tế Xương 陳濟昌 (1870-1907) tên khai sinh là Trần Duy Uyên, tử Tử Thịnh 子盛, hiệu Vị Thành 渭城, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, xuất thân từ một gia đình thanh bạch. Đường khoa cử của ông lận đận: đi thi từ năm 15 tuổi nhưng hỏng hoài, mãi tới năm 24 tuổi (1894) mới đỗ Tú tài. Sau đó ông lại trượt Cử nhân 5 khoa liền. Nhà nghèo, con đông, nghề dạy học lại bấp bênh trong thời kỳ Nho học suy tàn, ông chỉ còn biết trông cậy vào bà vợ đảm đang. Đang lúc còn đeo đuổi khoa cử, ông đột ngột qua đời năm 1907, mới 37 tuổi.
Tác phẩm ông để lại gồm nhiều thể loại: thơ, phú, câu đối, hát nói..., phần lớn đều bằng chữ Nôm. Thơ văn ông giản dị, bình dân, nhưng tự nhiên và linh hoạt. Nhiều sáng tác trình bày tâm sự đau đớn, xót xa; hoặc mỉa mai, ngạo đời một cách chua chát, cay độc; hoặc gửi gấm tấm lòng yêu nước thương nòi một cách kín đáo và sâu sắc.
Tác phẩm:
- Vị Xuyên thi văn tập: Thơ văn và giật sử ông Trần Kế Xương, In lần 1, Nam Kỳ thư quán (tên ông bị viết nhầm thành Trần Kế Xương)
- Thơ Trần Tế Xương: Kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ (tiểu luận), Xuân Diệu, Ty văn hoá Nam Hà, 1970
Trần Tế Xương 陳濟昌 (1870-1907) tên khai sinh là Trần Duy Uyên, tử Tử Thịnh 子盛, hiệu Vị Thành 渭城, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, xuất thân từ một gia đình thanh bạch. Đường khoa cử của ông lận đận: đi thi từ năm 15 tuổi nhưng hỏng hoài, mãi tới năm 24 tuổi (1894) mới đỗ Tú tài. Sau đó ông lại trượt Cử nhân 5 khoa liền. Nhà nghèo, con đông, nghề dạy học lại bấp bênh trong thời kỳ Nho học suy tàn, ông chỉ còn biết trông cậy vào bà vợ đảm đang. Đang lúc còn đeo đuổi khoa cử, ông đột ngột qua đời năm 1907, mới 37 tuổi.
Tác phẩm ông để lại gồm nhiều thể loại: thơ, phú, câu đối, hát nói..., phần lớn đều bằng chữ Nôm. Thơ văn ông giản dị, bình dân, nhưng tự nhiên và linh hoạt. Nhiều sáng tác trình bày tâm sự đau đớn, xót xa; hoặc mỉa mai, ngạo đời một cách chua chát, cay độc; …
Thơ dịch tác giả khác