Thơ » Việt Nam » Cận đại » Trần Tế Xương
Đăng bởi Vanachi vào 24/02/2006 18:29
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!
Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi biendongvn ngày 03/11/2010 03:09
Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành tên là Tú Xương. “Thi không ăn ớt thế mà cay”. Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp 4 khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: “Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi”.
Một việc văn chương thôi cũng nhàm,Khoa thi Đinh Dậu đôi với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau”.
Trăm năm thân thế có ra gì?
(Buồn thi hỏng)
Nhà nước ba năm mở một khoa,Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm hoạ độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,Hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tu kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lay mụ đầm “váy lê quét đất”, “ghế trên, ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lẽ quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịtNguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: “Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục”.
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng “nào ai đó” phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ “ngoảnh cổ” gợi lả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. “Cảnh nước nhà” là cái cảnh nhục nhã:
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...
(...) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang
(Á tế Á ca)
Gửi bởi hảo liễu ngày 30/04/2017 11:39
Câu 1: Hai câu đầu cho thấy kì thi có gì khác thường? Chú ý phân tích kĩ từ “lẫn” và tác dụng của nó trong việc biểu đạt nội dung của bài thơ?
Gợi ý trả lời:
– Hai câu thơ đầu giới thiệu hoàn cảnh của khoa thi và cho thấy sự xáo trộn của trường thi:
Nhà nước ba năm mở một khoa,Câu thơ đầu thông báo một lệ thường, dưới thời phong kiến, cứ ba năm có một khoa thi Hương. Điều đó không có gì đặc biệt, song câu thơ thứ hai không chỉ mang tính chất là lời giới thiệu cụ thể khoa thi ấy nữa mà là sự thông báo về những thay đổi trong tổ chức thi cử. Giọng điệu hài hước thể hiện khá rõ ngay trong hai câu thơ đầu. Đôi câu thơ như một thông báo. Khoa thi này do nhà nước tổ chức, cứ ba năm một lần thi Hương để chọn nhân tài. Bề ngoài thì bình thường: Một kì thi theo đúng thời gian thông lệ: Ba năm một lần. Nhưng nó báo hiệu một cái gì khác trước. Đó là thực chất của kì thi này là không bình thường: Trường Nam thi lẫn trường Hà. Người tổ chức không phải là triều đình mà là “nhà nước”.
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,– Bằng biện pháp đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: “lôi thôi”, “đeo lọ” cùng với những từ chỉ âm thanh: “ậm oẹ”, “thét”, nhà thơ đã tái hiện lại quang cảnh trường thi trở nên nhốn nháo, ô hợp, mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức. Nghệ thuật đảo ngữ đặt các từ láy là tính từ lên đầu câu vừa gây ấn tượng về hình thức vừa gây ấn tượng khái quát hình ảnh thi cử của các sĩ tử khoa thi Đinh Dậu. Hơn thế, sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan chủ khảo trường thi không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Hình ảnh quan trường hiện ra là kẻ chỉ biết ra oai, nạt nộ, nhưng giả dối, không có thực lực. Người chịu trách nhiệm tổ chức kì thi và sĩ tử đi thi thật không ra thế nào. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho. Cảnh tượng đó phản ánh đúng sự nhốn nháo, pha tạp, thiếu vẻ trang nghiêm của một kì thi không nghiêm túc, dự báo trước sẽ không hiệu quả.
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 30/07/2017 13:34
Có lẽ đây là bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của Việt Nam buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Bức tranh miêu tả quang cảnh kì thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
Nhà nước ba năm mở một khoa,Hai câu thơ giới thiệu khéo léo đặc điểm của kì thi Hương này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì. Cho nên, về mặt nghệ thuật, hai câu đề đã làm tốt nhiệm vụ giới thiệu của nó.
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,Những nhân vật trọng tâm của trường thi - sĩ tử và quan trường - được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Sĩ tử là người đi thi quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ "lôi thôi" này đặt ở đầu câu, gây ấn tượng mạnh, làm cho hình ảnh "vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến.
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Ậm oẹ quan trường miệng thét loaBọn sĩ tử thì "lôi thôi"; lũ quan trường thì "ậm oẹ". Ậm oẹ là một từ rất sáng tạo của Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở gọi tên các thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, và số thí sinh hẳn là rất đông, nên quan trường phải thét vào loa thì người ta mới nghe được. Đây là một chi tiết rất chân thực, gần như Tú Xương chỉ làm nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình mà thôi. Nhưng chính từ ngữ "ậm oẹ" hết sức độc đáo này đã khiến người thợ chụp hình bình thường ấy thành một nghệ sĩ rất sắc sảo, rất thú vị.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,Tác giả lại tiếp tục "tả thực" cảnh trường thi. Theo như sách sử cho biết, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tên toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tôn công sứ Nam Định Le Normand đến dự. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn.
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất nước. Câu thơ là một tiếng kêu than đối với chính mình hay là một lời kêu gọi đối với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân tộc? Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa, cho thấy tâm trạng xốn xang của chính nhà thơ. Nhân tài ở đây chỉ ai, nếu không phải là nhằm tới những người trí thức của thời đại đã từng đi qua cái cửa của trường thi này?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 06/10/2017 09:23
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương (còn có tên Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu) là một trong số 13 tác phẩm của Trần Tế Xương viết về đề tài thi cử. Trong bản chất, việc thi cử bao giờ cũng cần thiết. Có thể khẳng định rằng phần lớn những người đỗ đạt (kể cả những người đỗ vào chính các khoa thi mà Trần Tế Xương từng phê phán) đều là những người tài giỏi, có đóng góp quan trọng với đất nước. Với Trần Tế Xương, ông triệt để khai thác đề tài thi cử, những điều mắt thấy tai nghe, chủ yếu là những việc liên quan đến lề lối, cung cách thi cử, lối thi cũ cũng như khi đổi sang lối thi mới, cả người đỗ đạt cũng như người hỏng thi. Vì thế, việc đọc hiểu bài thơ Vịnh khoa thi Hương cần phân biệt rõ thủ pháp biếm hoạ, cực tả (bao gồm cả việc châm biếm những phương diện trong bản chất vốn là sự cải cách, đổi mới, tiến bộ xã hội) và cần được đặt trong tương quan với nhiều thi phẩm của chính Trần Tế Xương (Đổi thi, Than sự thi, Đi thi nói ngông, Ông tiến sĩ mới...) cũng như so với thơ ca cùng dạng đề tài khoa cử của nhiều tác giả khác đương thời.
Trong tầm quan sát của Trần Tế Xương, tất cả mọi vấn đề liên quan đến thi cử đều bị “biến dạng” trong mối quan hệ giữa danh và thực, tài và lực, giữa cái cũ lạc hậu nhưng chưa tiêu tan và cái mới vẫn chưa thắng thế. Nói cách khác, thơ Trần Tế Xương đã hoán cải ngay cả những bi kịch thi cử và thất vọng cá nhân thành một chuỗi cười dài.
Mở đầu bài thơ Vịnh khoa thi Hương, việc nhà nước mở khoa thi theo lối mới và thay đổi cách thức tổ chức thi cử - trường Hà Nội thi chung với trường Nam Định - cũng trở thành vấn đề:
Nhà nước ba năm mở một khoa,Trong hai câu ở phần thực, nhà thơ thực hiện thủ pháp cực tả, nói quá và biếm hoạ hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ “Lôi thôi...” lên đầu câu, nhân vật sĩ tử “vai đeo lọ” bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc đảo tính từ đồng thời là từ láy “Ậm oẹ...” lên trước cũng biếm hoạ ông quan coi thi “miệng thét loa” thành người ngu ngơ, ấm ớ, dớ dẩn. Trên thực tế, việc quan trường “miệng thét loa” là hành động đúng – đúng cả về mục đích và ý thức trách nhiệm – nhằm vãn hồi trật tự, xác lập sự nghiêm túc nơi trường thi, có gì là sai đâu? Hai câu thơ giới thiệu hai kiểu nhân vật vốn là chủ nhân nơi trường thi nhưng đã bị biếm hoạ thành hình ảnh những người thô kệch, thiếu tư cách, không phù hợp với khung cảnh thi cử. Ở đây, kiểu nhân vật sĩ tử và quan trường từ muôn năm xưa vốn được coi trọng mà nay mất thiêng, hoá thành loại người nhếch nhác, láo nháo, đáng bị chê cười. Tác giả đã lược giản, bỏ qua cái phần phẩm cách mà chính họ từng đại diện cho các giá trị tinh thần truyền thống và ngược lại, chỉ tập trung khai thác, tô đậm, biếm hoạ ngay cả những hành động, việc làm nghiêm chỉnh của họ nơi trường thi. Tiếp theo hai câu ở phần luận, Trần Tế Xương giới thiệu thêm hai loại nhân vật mới mà tử cổ xưa đến nay mới lần đầu xuất hiện giữa nơi trường thi:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,Hoạt cảnh nổi bật là sự khoa trương hình thức với những chiếc lọng “cắm rợp trời” và sau đó là ông quan sứ (ông quan cai trị người Pháp) xuất hiện. Ở câu thơ sau là chiếc váy xoè xa lạ “lê quét đất” và liền đó là hình hài “mụ đầm” (bà, bà đầm: dame: bà Tây...) (vợ ông quan sứ Pháp) oai vệ bước ra. Có thể nói sự hiện diện của hai kiểu nhân vật “quan sứ” và “mụ đầm” chính là một sự thay đổi cơ bản, khiến cho hoạt cảnh trường thi càng thêm phần xa lạ, phản cảm. Hai kiểu nhân vật này đại diện cho một thời đại mới, một chế độ mới, một thế lực và một nền giáo dục mới mẻ. Cách gọi “quan sứ” đăng đối với “mụ đầm” đã hàm chứa sự giễu cợt, châm biếm mát mẻ và thái độ xa lánh, coi thường... Tuy nhiên, ngay cả khi trong sách giáo khoa có chú dẫn về cảnh đón rước: “Khoa thi Hương này có Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Pôn Đu - me (Paul Doumer) cùng vợ đến dự” thì xét về bản chất, khoa thi rất được chú trọng, có cả quan Toàn quyền đến tham dự, chứng kiến. Và cũng xét về bản chất, có điều gì cần phê phán không? Thêm nữa, hình ảnh bà đầm trang phục đúng kiểu Tây cũng bị giễu nhại: Váy lê quét đất... Thời Pháp thuộc, phần nhiều dân ta xa lạ với kiểu váy đầm, tóc phi dê: Cô phi dê là con chó xồm/ Đứng bên tôi làm tôi hết hồn... Bà đầm – vợ ông Toàn quyền – vốn chẳng có lỗi gì cũng bị săm soi, chê trách, biếm hoạ. Có thể nói, Trần Tế Xương đã đứng trên lập trường đạo đức và thậm chí là một chiều khi qui kết, châm biếm cả những phương diện thuộc về cải cách thi cử và tiến bộ xã hội. Cho đến hai câu kết, Trần TếXương nâng cấp sự ý thức của các sĩ tử trong khoa thi thành vấn đề quốc thể:
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,Câu hỏi đặt cho nhân tài đắt Bắc “nào ai đó” góp phần tô đậm, nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm kẻ sĩ trước hiện tình đất nước. Bởi lẽ những người được gọi là “Nhân tài” ở đây trước hết phải kể đến các sĩ tử, những người đang dự thi và mong được đỗ đạt, làm quan, thành nhân tài cai quản xã hội. Nhìn rộng ra, xếp vào hệ thống nhân tài còn có giới quan trường, các bậc trí thức, những người có trách nhiệm với non sông đất nước. Tác giả đặt ra câu câu hỏi nhưng ngay trong đó đã sẵn có câu trả lời, ai cũng rõ “ai” được xếp vào loại “nhân tài”. Câu thơ thật bình dị mà đa nghĩa, khơi gợi ý thức trách nhiệm của mọi người: Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà...
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.