2964.31
Nước: Việt Nam (Nguyễn)
155 bài thơ
4 bình luận
84 người thích
Tạo ngày 30/09/2005 13:04 bởi Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 26/05/2006 09:52 bởi Vanachi
Hồ Xuân Hương 胡春香 (1772-1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hành trạng hiện vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu lâu, nhưng thi sĩ Xuân Diệu đã tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là “thanh thanh tục tục”.

Về hành trạng, không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân dị mặc 佳人遺墨 của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916. Cũng vì…

 

Đề vịnh Hạ Long

Đồ Sơn bát vịnh

Hương đình cổ nguyệt thi tập - 香亭古月詩集

Lưu hương ký - 瑠香記

  1. Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ
    4
  2. Thiếu niên du điệu
    4
  3. Xuân đình lan điệu
    4
  4. Thu dạ hữu hoài
    3
  5. Thu phong ca
    3
  6. Nguyệt dạ ca kỳ 1
    8
  7. Nguyệt dạ ca kỳ 2
    3
  8. Ngư ông khúc hành
    3
  9. Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu
  10. Hoài cựu
  11. Thu nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ ký
  12. Cảm cựu tống tân xuân chi tác kỳ 1
  13. Cảm cựu tống tân xuân chi tác kỳ 2
  14. Ngụ ý Tốn Phong ký nhị thủ kỳ 1
  15. Ngụ ý Tốn Phong ký nhị thủ kỳ 2
  16. Hoạ nhân
  17. Tặng Tốn Phong tử
  18. Thạch Đình tặng
  19. Ký Sơn Nam Thượng trấn Hiệp trấn Trần Hầu kỳ 1
  20. Ký Sơn Nam Thượng trấn Hiệp trấn Trần Hầu kỳ 2
  21. Hoạ Sơn Phủ chi tác
  22. Tốn Phong đắc mộng chí dữ ngã khán nhân thuật ngâm, tịnh ký
  23. Hoạ Tốn Phong nguyên vận
  24. Hoàng giang ngộ hữu hỉ phú
  25. Thệ viết hữu cảm
  26. Tự thán kỳ 1
  27. Tự thán kỳ 2
  28. Lưu biệt thời tại An Quảng, An Hưng ngụ thứ
  29. Bạch Đằng giang tặng biệt
  30. Chí Hiên tặng kỳ 1
  31. Chí Hiên tặng kỳ 2
  32. Hoạ Thanh Liên nguyên vận
  33. Nhân tặng
  34. Tưởng đáo nhân tình minh nhiên há lệ nhân nhi tẩu bút phụng trình
  35. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 1
  36. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 2
  37. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 4
  38. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 5
    6
  39. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 6
    4
  40. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 7
    6
  41. Dữ Sơn Nam Thượng Hiệp trấn quan Trần Hầu xướng hoạ kỳ 8
    4
  42. Xuân Hương tặng hiệp quận

Thơ truyền tụng

  1. Bánh trôi nước
    7
  2. Bùn bắn lên đồ
  3. Cái giếng
    1
  4. Cái quạt
    3
  5. Canh khuya
    4
  6. Câu đối Tết: Tối ba mươi - Sáng mồng một
  7. Chế sư
  8. Chi chi chuyện ấy
  9. Chơi hoa
    1
  10. Chơi Khán Đài
    1
  11. Chùa Hương Tích
  12. Chùa Sài Sơn
  13. Chùa Trấn Bắc Chơi chùa Trấn Quốc
    1
  14. Con cua
  15. Dệt cửi đêm
  16. Du cổ tự
  17. Duyên kỳ ngộ
  18. Dữ Phạm tế tửu xướng hoạ, kỳ nhị
  19. Đá chẹt thi
  20. Đá Ông Chồng, Bà Chồng
  21. Đàn gảy
  22. Đánh cờ người
    6
  23. Đánh đu
    2
  24. Đề nhị mỹ nhân đồ
  25. Đi đái bùn nẩy
  26. Đọc cho Chiêu Hổ hoạ
  27. Đồng tiền hoẻn
    1
  28. Đưa đò Qua sông phụ sóng
    1
  29. Già kén kẹn hom
  30. Hạ nhật tầm phu (Ngày hè tìm chồng)
  31. Hang Cắc Cớ
    1
  32. Hàng ư Thanh (Quán hàng ở xứ Thanh)
  33. Hỏi cô hàng sách
  34. Hỏi trăng
  35. Hữu cảm
  36. Khấp Vĩnh Tường quan
  37. Khóc chồng làm thuốc
  38. Khóc Tổng Cóc
    3
  39. Không chồng mà chửa
  40. Ký tao nương Mộng Lan (Gửi nữ sĩ Mộng Lan)
  41. Lấy chồng chung
    1
  42. Lỡm học trò
    1
  43. Miếu Sầm thái thú Đề đền Sầm Nghi Đống
    2
  44. Mời ăn trầu Mời trầu
    1
  45. Mời khách ăn trầu
  46. Ngại ngùng
  47. Nguyệt hỡi đê mê
  48. Nhĩ Hà tức cảnh
  49. Núi Ba Đèo
  50. Núi Kẽm Trống
  51. Nước Đằng
  52. Ốc nhồi
    2
  53. Phiếm chu ngoạn nguyệt (Giong thuyền chơi trăng)
  54. Quả mít
    1
  55. Quá Nghệ An hoài giai nhân, hựu thể
  56. Quan Hậu sợ vợ
  57. Quán Sứ tự
  58. Sài Sơn thiên thị (Chợ trời núi Thầy)
  59. Sư hoạnh dâm
    3
  60. Tát nước
  61. Tặng tình nhân
  62. Thân phận người đàn bà
  63. Thị Đểu thi
  64. Thơ tự tình
    4
  65. Thương
  66. Thương ôi phận gái
  67. Thương thay phận gái
  68. Tiễn người làm thơ
  69. Tình có theo ai
  70. Trách Chiêu Hổ
  71. Trào tăng
  72. Trúc Bạch hồ
    1
  73. Tức cảnh chiều thu Cảnh thu
    6
  74. Tức sự
  75. Vấn nguyệt
    1
  76. Vịnh bách chu - tức sương nữ
  77. Vịnh cái quạt
  78. Vịnh chung
  79. Vịnh dạy con trẻ
  80. Vịnh đời người
  81. Vịnh Hằng Nga
  82. Vịnh hoa cúc
  83. Vịnh nằm ngủ
    6
  84. Vịnh ni sư
  85. Vịnh ông cắng đánh nhau Cái cắng đánh nhau
  86. Vịnh Thăng Long hoài cổ
  87. Vịnh xuyên cổ (Vịnh trống thủng)
  88. Vọng Tây Hồ hoài hữu
  89. Vô âm nữ

Tuyển tập chung

 

 

Ảnh đại diện

Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương

Người ta thường bảo “Nôm na là cha mách qué”, thế nhưng với thơ Hồ Xuân Hương thì đó lại là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính từ cái sự “mách qué” ấy. Nếu không có cái chất “nôm na”, “mách qué”, “xỏ xiên” đầy tinh quái này thì có lẽ đã không có một Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng và tôn vinh Bà thành Bà chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm na trong thơ của Bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. Người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún phún, le te, chín mõm mòm,... Tất cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. Ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt gặp ở Bà một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn.

Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập Thơ Hồ Xuân Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1987, chúng tôi đã phát hiện được 15 trường hợp có xuất hiện các yếu tố của thành ngữ, tục ngữ trong những câu thơ. Đây quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như thế nào. Quả là hiếm có một nhà thơ nào lại quan tâm đặc biệt đến vai trò của ngôn ngữ dân gian như Hồ Xuân Hương.

Việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phẩm đã được nhà thơ xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn. Có những tác phẩm tuy rất ngắn nhưng chúng ta đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả đã hai lần sử dụng đến yếu tố thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn như: Bài Mời trầu có hai câu thành ngữ xanh như lá và bạc như vôi được áp dụng trong câu thơ “Đừng xanh như lá, bạc như vôi”. Bài Khóc Tổng Cóc lại có hai câu thành ngữ khác là nòng nọc đứt đuôi và gọt gáy bôi vôi được áp dụng trong hai câu thơ “Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi”. Hoặc như ở bài Quan thị thì hai câu thơ “Đố ai biết đó vông hay trốc, Còn kẻ nào hay cuống với đầu” lại chính là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ hai câu tục ngữ ngồi lá vông, chổng mông lá trốc và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên.

Thậm chí có bài như bài Làm lẽ, chỉ với tám câu thơ ngắn nhưng lại có tới ba câu thành ngữ đã góp phần vào trong ấy, đó là “Năm thì mười hoạ chăng hay chớ” lấy từ ý của câu thành ngữ năm thì mười hoạ; “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” lấy từ ý của câu thành ngữ cố đấm ăn xôi; và câu “Cầm bằng làm mướn, mướn không công” lấy từ ý của thành ngữ làm mướn không công. Ngoài ra, còn có những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: “Tài tử văn nhân ai đó tá?” (Tự tình I) lấy ý của thành ngữ tài tử giai nhân. “ấy ai thăm ván cam lòng vậy” (Tự tình III) lấy ý thành ngữ thăm ván bán thuyền. “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước) ý của thành ngữ ba chìm bảy nổi (bảy nổi ba chìm). “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” (Đèo Ba Dội) ý của thành ngữ mỏi gối chồn chân. “Bán lợi mua danh nào những kẻ” (Chơi chợ chùa Thầy) ý của thành ngữ bán lợi mua danh (mua danh bán lợi). Và “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi” (Con ốc nhồi) từ ý của thành ngữ lăn lóc như cóc bôi vôi.

Qua một số dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy rằng Hồ Xuân Hương khi đưa thành ngữ, tục ngữ vào thơ thường chủ yếu thông qua hai phương thức chính như sau: Phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian để đưa vào thơ như trường hợp: xanh như lá, bạc như vôi (Đừng xanh như lá, bạc như vôi - Mời trầu); nòng nọc đứt đuôi (Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé - Khóc Tổng Cóc); năm thì mười hoạ, (Năm thì mười hoạ chăng hay chớ - Làm lẽ); cố đấm ăn xôi (Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm - Làm lẽ); bảy nổi ba chìm (Bảy nổi ba chìm với nước non - Bánh trôi nước); mỏi gối chồn chân (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo - Đèo Ba Dội); bán lợi mua danh (Bán lợi mua danh nào những kẻ - Chơi chợ chùa Thầy). Cách xử lí này phải nói là tương đối khó bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ, tục ngữ mà họ định sử dụng để xem nó có phù hợp với ý thơ mà mình định trình bày ở trong câu và trong bài hay không. Đồng thời, tác giả cũng phải là người hết sức giỏi về khả năng xử lí ngôn từ để có thể “ghép” những câu thành ngữ, tục ngữ, vốn là một “khối từ ngữ đúc sẵn”, vào với những từ ngữ chủ quan riêng của mình để tạo nên một câu thơ hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa cũng như về vần điệu.

Những khó khăn nói trên đã được Hồ Xuân Hương xử lí thành công một cách tuyệt vời. Chúng ta thử lấy một ví dụ nhỏ trong số các ví dụ trên thì sẽ thấy rõ hơn biệt tài của Bà trong vấn đề này. Ví dụ trong bài Làm lẽ, để miêu tả thân phận hẩm hiu, thua thiệt của người vợ lẽ trong cuộc sống vợ chồng, tác giả đã sử dụng hai câu thành ngữ năm thì mười hoạ và cố đấm ăn xôi trong hai câu thơ “Năm thì mười hoạ chăng hay chớ” và “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”. Đối với tiềm thức văn hoá của người Việt thì hai câu thành ngữ này vốn rất quen thuộc vì nó thường được sử dụng để nói tới sự trái khoáy, trớ trêu của một điều gì đó. Vì vậy trong trường hợp này phải nói rằng Xuân Hương đã sử dụng nó rất hợp cảnh hợp tình.

Phương thức thứ hai là chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để chuyển vào trong thơ chứ không áp dụng hoàn toàn như ở cách thứ nhất. Chẳng hạn như: thăm ván bán thuyền (ấy ai thăm ván cam lòng vậy - Tự tình III); gọt gáy bôi vôi (Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi - Khóc Tổng Cóc); làm mướn không công (Cầm bằng làm mướn, mướn không công - Làm lẽ); ngồi lá vông, chổng mông lá trốc (Đố ai biết đó vông hay trốc - Quan thị); đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên (Còn kẻ nào hay cuống với đầu - Quan thị); lăn lóc như cóc bôi vôi (Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi - Con ốc nhồi). Cách xử lí này thường tạo nên tính ẩn ý kín đáo cho câu thơ và đôi lúc khiến cho câu thơ như có hơi hướng của những câu đố, ví dụ như trường hợp của “Đố ai biết đó vông hay trốc” (Quan thị) hay như “Còn kẻ nào hay cuống với đầu” (Quan thị). Những câu thơ được sáng tác theo kiểu này thường tạo cho người đọc có những sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng hơn bởi vì dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phảng phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ nhất. Do đó, muốn phát hiện ra trong câu thơ ấy tác giả có sử dụng các môtip của thành ngữ, tục ngữ để diễn đạt nội dung hay không thì người đọc phải có một vốn thành ngữ, tục ngữ nhất định để làm cơ sở quy chiếu so sánh thì mới nhận ra được.

Qua một số ví dụ trên, chúng ta thấy rằng ngôn ngữ dân gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trị rất lớn không chỉ trong đời sống ngôn ngữ nói hằng ngày mà còn cả trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là thơ. Những câu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của Hồ Xuân Hương dường như trở thành một thứ công cụ hết sức đắc dụng trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không cần phải nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Như chúng ta đã biết, thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt. Nó là một loại tổ hợp từ cố định quen dùng nên rất dễ nhớ dễ thuộc, và đặc biệt hơn là nghĩa của chúng thường có tính văn hoá, giáo dục cộng đồng, cũng như tính khái quát rất cao. Cho nên, khi xuất hiện trong thơ chúng thường đem lại tính gần gũi, bình dị và mộc mạc cho câu thơ. Đồng thời, cũng tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự liên tưởng, suy luận của người đọc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận giá trị của nền ngôn ngữ văn chương, hay ngôn ngữ phổ thông mà hiện nay chúng ta đang phải học, phải tiếp xúc hằng ngày. Điều quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thấy được những vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân gian. Và đặc biệt là thấy được cái biệt tài của Bà chúa thơ Nôm trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thế nào. Nói tóm lại, bất kể là ngôn ngữ dân gian hay ngôn ngữ văn chương cũng đều cần phải được tiếp thu có chọn lọc và phát huy đúng sở trường thì mới có thể làm giàu thêm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Điều đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nên được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí của nó mà thôi.


Đặng Thanh Hoà
(Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống)
如风如雨又如霜!!!
104.70
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Gửi Vanachi

Theo những gì bạn hiểu, có thể thấy bạn chưa sâu sắc lắm về thơ ca nước nhà thời trung đại. Ý kiến của bạn:

Cái ngày còn mài đũng quần trong các lớp đệ ngũ, đệ tứ, tôi được học bài Qua Ðèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan, sự thật không có gì xuất sắc lắm nhưng muốn có điểm cao cứ phải khen lấy khen để, thực ra bà Huyện thấy gì tả nấy, như thấy con cóc trong hang nhẩy ra, ngồi đó, nhẩy đi, rồi lại ngồi đó, thì làm sao có thể so sánh với bài Ðèo Ba Dội của Bà Phủ Vĩnh Tường, rất ví von, nhẹ nhàng, thanh thoát, hóm hỉnh, tượng hình, tượng thanh. Chúng ta thử theo gót Bà Huyện Thanh Quan đến Ðèo Ngang vào một buổi chiều, mặt trời xế bóng, nhìn phong cảnh bao la, hùng vĩ của sông núi, những tia nắng vàng yếu ớt xuyên qua từng kẽ lá phản chiếu trên mặt nước long lanh của một con suối róc rách chẩy, tạo thành một bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời, âm thanh dịu dàng, tâm hồn người thơ như chìm đắm trong cái đẹp mơ màng của buổi hoàng hôn. Vậy mà Bà Huyện chỉ viết được:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Nhìn xuống dưới thung lũng thấy cỏ cây hoa lá chen chúc mọc, bà đề:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Xa hơn nữa vài chú tiều ốm-o gầy còm đang lom khom làm rẫy:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Chung quanh vài căn nhà lác đác trên bờ sông:
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Thú thật tôi chẳng có một tí.. feeling nào hết!! Làm thơ như vậy ai làm mà chả được!! Ta hãy để tâm hồn lắng đọng lại, tưởng tượng mình đang đi về miền quê ngoạn cảnh, qua miền đồi núi hương thơm ngào ngạt, xa xa con đường đất nhỏ uốn khúc chạy xuyên qua hết đèo này tới đèo khác lên cao bất tận, bà Phủ Vĩnh Tường đã phải dùng ba lần chữ “một đèo” để tả cảnh non nước hữu tình trùng trùng điệp diệp này của Ðèo Ba Dội:
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo
........Đây không phải một bài thơ miêu tả cảnh thiên nhiên bạn nhé, nếu vậy, điều đó thật hời hợt và nhà văn cũng chẳng có điều gì đáng quan tâm. Một bài thơ ra đời, khi nghiên cứu phân tích, ta không nên chỉ dựa vào ngôn từ mà đánh giá toàn vẹn tác phẩm. Nước ta có rất nhiều nhà nghiên cứu văn học tâm huyết và tài năng, không phải đơn giản họ hùa nhau tung hô một tác phẩm để tác phẩm đó nổi bật đâu, hoàn toàn ko phải như thế. Cái chuẩn cao nhất khi đánh giá, chính là khám phá cái hình thức bên trong mà tác phẩm biểu hiện. Một tác phẩm sống được qua hàng niên kỉ chứng tỏ tác phẩm ấy có giá trị tác phẩm Qua Đèo Ngang, ko mang ý nghĩa hời hợt như bạn nói, 1 phần thôi nhé. Ý tứ bài thơ chứa đầy nỗi lòng của tác giả khi ra làm quan nhà Mạc, đánh dấu cho sự sụp đổ của nhà Lê, Đèo Ngang ấy là ranh giới của sự tình biến chuyển, bà bước qua đèo chính là lúc bà công nhận triều Lê đã mất, từ đó hoài niệm về những gì thuộc về quá khứ. Chỉ khi nhập tâm vào tác phẩm, ta mới hiểu hết được nỗi chua xót, nghe được tiếng thở dài của người thi sĩ khi chấp nhận bước qua ranh giới ấy:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta!!!
Toàn bộ ý tứ bài thơ còn nhiều nữa nhưng chỉ ra đôi chút thôi, mong bạn gì đó đánh giá tác phẩm của các thi sĩ sâu sắc hơn, thơ Hồ Xuân Hương cũng vậy, phải nghiên cứu kĩ mới cảm hết được, đánh giá trên ngôn từ thì giống với đánh giá của mấy nhà nghiên cứu trong quá khứ mất rồi, lấy một từ để quy chụp tác phẩm hoàn toàn thiếu cơ sở. Thân chào và chúc sức khoẻ!!!

164.50
Ảnh đại diện

Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du

I. Ba năm vẹn mối tình Nguyễn Du & Hồ Xuân Hương
I.1.

Mùa hè 2011, sau một chuyến du hành khắp nước, tôi dành 5 ngày về ở tại Làng Nghi Tàm trên đường Xuân Diệu. Suốt năm ngày dù trời mưa gió, hay nắng tốt tôi cũng đi khắp làng Nghi Tàm, khắp các đình, chùa, vườn hoa kiểng quanh Hồ Tây, tôi hỏi thăm, trò chuyện cùng các cụ già, thăm dấu vết từng di tích ghi dấu trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ và nhất là 31 bài thơ của Tốn Phong Nham Giác Phu, viết ca tụng nữ thi sĩ: Tao đàn xuất hiện vị thơ thần và cũng là người đẹp Phi Mai xuân sắc nhất kinh thành, mà hai trăm năm qua cả nước tốn không biết bao nhiêu là bút mực tìm kiếm về nàng.

Hồ Xuân Hương, tên thật là Hồ Phi Mai, con cụ Hồ Phi Diễn, chánh quán tại Quỳnh Lưu, Hà Tĩnh, và bà mẹ họ Hà quê Hải Dương, nhưng sinh ra và lớn lên tại làng Nghi Tàm, nơi nổi tiếng nghề dệt lụa, làm giấy, dệt lĩnh đen. Tây Hồ có cảnh đẹp “Tây Hồ Bát Cảnh”. Một thi xã đời Vĩnh Hựu (1735-1739) nhà Lê đã ca tụng tám cảnh đẹp quanh Tây Hồ:

- Bến trúc Nghi Tàm: bến tắm chúa Trịnh Giang dưới dãy trúc ngà làng Nghi Tàm.

- Rừng bàng Yên Thái: khu rừng bàng trên núi đất làng Bưởi do chúa Trịnh Giang bắt trồng.

- Đàn thề Đồng Cổ: Đàn do vua Lý Thái Tông (1028-1054) xây để hàng năm quần thần đến đây, để hàng năm quần thần đến thề để tỏ lòng trung hiếu.

- Phật say làng Thuỵ. Chùa làng Thuỵ Chương có pho tượng Phật chống gậy, người thợ điêu khắc sai trông giống như dáng người say rượu, lại hoá ra một kiệt tác, ai xem cũng thích thú.

- Sâm cầm rợp bóng: Nghề săn chim sâm cầm ở các làng quanh Hồ Tây.

- Đồng hoa Nghi Tàm: Làng Nghi Tàm làm nghề trồng hoa có những vườn hoa rất đẹp.

- Chợ đêm Khán Xuân: Chúa Trịnh thường họp hội chợ đêm cùng các cung nữ, thái giám tại đền Khán Xuân để mua vui. Phạm Đình Hổ trong Tang Thương ngẫu lục bài chuyện cũ trong vương phủ có tả cảnh hội chợ: nội thị, cung nữ bắt chước việc mua bán ngoài đời làm trò vui.Chợ đêm vào dịp Trung Thu, hàng ngàn chiếc đèn lồng do các cung nữ chế tạo bằng gấm trong cung, treo khắp nơi. Các quan nội thị chít khăn như đàn bà ngồi bán đủ các thứ hàng, các cung nữ đi lại vừa mua vừa tranh cướp, bắt chước những tiếng thường dùng nơi chợ búa. Nửa đêm Chúa Trịnh ngự xuống thuyền rồng, thuyền bơi qua bơi lại đàn sáo, người hát xướng hoà ca cho đến khi gà gáy.

- Tiếng đàn hành cung: Tiếng đàn các cung nữ nơi hành cung chúa Trịnh nay là chùa Trấn Quốc.

I.2.

Cổ Nguyệt đường nơi đâu? Tôi đi nhiều lần trên con đường nhỏ không tên từ chùa Kim Liên đến đình Nghi Tàm và đọc lại thơ các danh sĩ, Nhà nàng là một khu đất rộng trên đường này, nằm bên Bến trúc Nghi Tàm. Tốn Phong gọi nhà nàng là đình, hay viện Thơ Tốn Phong: Ai đến đình mai hỏi chủ nhân, bài 3, Chủ nhân trước viện trắng mai hoa, bài 5, Riêng tựa đình mai một ánh trăng, bài 7, Đình nguyệt tròn xoe sáng ánh rằm, bài 23.

Cổ Nguyệt đường là một ngôi nhà lớn, năm cụ Hồ Phi Diễn thọ 80 tuổi, năm 1783, học trò cụ lớn, bé, kẻ làm quan đỗ đạt đã chung góp tiền lại xây nhà cho thầy, năm ấy vì bận rộn xây cất, Xuân Hương Hồ Phi Mai được gửi về Quỳnh Lưu quê cha một thời gian. Đó là tục lệ mừng thượng thọ 80 cho thầy ngày xưa, cụ sống đến 83 tuổi, và bà mẹ Xuân Hương họ Hà sống đến năm 1814. Năm 1813 Tốn Phong còn gặp.Năm 1814 Trần Phúc Hiển cưới Xuân Hương, nhưng vì cư tang mẹ một năm, nên năm sau mới về Vịnh Hạ Long. Đình làng Nghi Tàm xưa là một khu đất rất rộng, xưa có Đài Khán Xuân của Chúa Trịnh, nay chỉ còn một cái đình nhỏ khu đất hẹp lại. Cạnh đài Khán Xuân còn có ngôi gác tía của Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du, ông thường ra đây đi câu cùng Chúa Trịnh. Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Du về với anh Nguyễn Nễ ở Bích Câu, dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh phá huỷ, Nguyễn Nể khi ra làm quan Tây Sơn có lẽ đã cho xây dựng lại một ngôi nhà trên đất này, nhưng Nguyễn Du thì thường ở nơi ngôi gác tía cạnh đền Khán Xuân.

Cổ Nguyệt đường cạnh chùa Kim Liên, cho nên Phạm Đình Hổ đã viết: “Từ thuở làm thân khách Cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần”, anh chàng này từng là học trò cụ Đồ Diễn, nên biết Xuân Hương từ thuở còn thiếu nữ. Trong Vũ Trung tuỳ bút tr 42, cho biết năm 1798-1799 có dạy học tại thôn Khánh Văn, hạ lưu sông Tô Lịch không xa nhà Xuân Hương. Trong Tang thương ngẫu lục, q 2 tr 231 có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên. “Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hoà Thượng Huệ (nội thị của chúa Uy Vương)” Phạm Đình Hổ đến thăm Xuân Hương cùng các bạn nhân đó ra về thăm chùa Kim Liên. Qua Vũ Trung Tuỳ bút ta biết Phạm Đình Hổ nhà ở phố Hàng Buồm và Nguyễn Kính phủ (Nguyễn Án) ở cạnh đền Lý Quốc Sư bên Hồ Gươm (nay là phố Nhà Thờ).

Quang cảnh chung quanh Cổ Nguyệt đường thế nào?: Theo thơ Tốn Phong, người viết tựa cho Lưu hương ký:

Phía trước nhà có trồng một cây bàng lớn: “Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình”, bài 6.

Chung quanh nhà có trồng nhiều cây mai (mơ): “Chủ nhân trước viện trắng mai hoa”, bài 5, “Bên quán người hoa chỉ thích mai” bài 9, “Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa”, bài 26.

Nhà nàng cạnh bến trúc làng Nghi Tàm: “Vàng bay lá trúc ngõ chuyền oanh”, bài 6, “Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh”, bài 14, “Khóm trúc đình mai ta với ta”, bài 21, “Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân”, bài 25.

Trên bến có trồng vài cây liễu: “Bến nước đìu hiu liễu rủ cành”, bài 6.

Trong vườn có trồng cây vông và cây mận: “Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng, Ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh”, bài 17.

Nhà Xuân Hương có trồng nhiều hoa, hoa đào, để bán như các nhà khác trong làng Nghi Tàm: “Nàng đây đối mặt giữa hoa ngàn”, bài 7. “Gió mát từng cơn quét ngấn hồng (hoa đào)”, bài 8. “Muôn tía ngàn hồng xuân sắc tới”, bài 9. “Hoa trời khai nở rộ đình xuân”, bài 25.

Hồ Xuân Hương có nuôi một con chim phượng hoàng đất do người bà con từ Quỳnh Lưu gửi cho: “Biếc rụng cành ngô sân phượng múa” bài 6. Thơ thời niên thiếu Hồ Xuân Hương có bài Vịnh ông cắn đánh nhau, tả hai con chim phượng hoàng đất bài 35 phần C văn bản Landes.

Nhà nàng quay mặt về hướng Đông nhìn ra Hồ Tây: “Đối mặt trời xanh, mưa móc thuận”, bài I.

Nhà được xây cất theo hình chữ khẩu: Có tả viện làm nơi tiếp khách, bán giấy, mực, sách. “Hoa đơm tả viện hương còn ẩm”, bài 22. Hữu viện là nơi dạy học, tiền viện là nhà thờ, hậu viện là khuê phòng Hồ Xuân Hương.Chính giữa, sân trống có hòn non bộ và chậu kiểng: “Chim hót non hàn khói biếc dâng”, bài 22

I.3.

Cổ Nguyệt đường cũng không xa Đền Khán Xuân, nay là khu đình làng Nghi Tàm, nơi đó cha, anh Nguyễn Du có ngôi nhà mát để câu cá. Nguyễn Du sau ba năm(1787-1790) chu du Vân Nam, Trường An, Hàng Châu gặp anh Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tại Hoàng Châu, trở về ở Thăng Long ở với anh Nguyễn Nể. Trong bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du gọi Xuân Hương là lân nữ, cô hàng xóm, và hẹn hò cùng nàng hái sen. Mối tình ba năm (1790-1793) “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn” - Thơ Hồ Xuân Hương bài Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân.

Mơ thấy hái sen (Mộng đắc thái liên)

I.
Xắn gọn quần cánh bướm,
Chèo thuyền nan hái sen.
Nước hồ dâng lai láng,
Bóng người soi nước trong.
I.
Khẩn thúc giáp điệp quần
Thái liên trạo tiểu dĩnh.
Hồ thuỷ hà xung dung,
Thuỷ trung hữu nhân ảnh.

II.
Tây Hồ, hái, hái sen,
Hoa, gương chất mạn thuyền,
Hoa tặng người mình kính,
Gương tặng người mình thương.
II.
Thái, thái Tây Hồ liên,
Hoa thực câu thướng thuyền.
Hoa dĩ tặng sở uý,
Thực dĩ tặng sở liên.

III.
Sáng nay đi hái sen.
Hẹn láng giềng đi với.
Nàng đến tự bao giờ?
Cách hoa nghe cười nói.
III.
Kim thần khứ thái liên,
Nãi ước đông lân nữ,
Bất tri lai bất tri,
Cách hoa văn tiếu ngữ.

IV.
Hoa sen ai cũng yêu,
Cọng sen nào ai thích,
Trong cuống có tơ bền.
Vấn vương hoài không dứt.
IV.
Cộng tri liên liên hoa,
Thuỳ giả liên liên cán.
Kỳ trung hữu chân ty,
Khiên liên bất khả đoạn.

V.
Lá sen màu xanh xanh,
Hoa sen đẹp xinh xinh,
Hái chớ làm lìa ngó,
Năm sau sen chẳng sinh.
V.
Liên diệp hà thanh thanh,
Liên hoa kiều doanh doanh.
Thái chi vật thương ngẫu,
Minh niên bất phục sinh.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du làm khoảng năm 1804-1805, sau khi được triệu vào kinh đô Huế thăng chức Đông các học sĩ, chức vụ thân cận vua Gia Long, hàng ngày dâng sách cho vua đọc, bàn luận cùng vua về trị nước, thảo các chiếu biểu cho vua. Nhìn hồ sen hồ Tịnh Tăm, Nguyễn Du không khỏi nhớ đến những ngày mơ mộng hơn mười năm xưa đã cùng nàng cô hàng xóm, hẹn nàng đi hái sen,nàng đã đến trong lòng chàng từ lúc nào, tiếng nàng vọng từ sau khóm hoa. Nguyễn Du kín đáo ví von tình mình như sợi tơ bền vấn vương hoài không dứt. Xắn gọn chiếc quần ống rộng có dây thun phía dưới, phùng ra như cánh bướm, chèo thuyền đi hái sen, nước hồ lai láng, dưới nước in bóng hai người. Hái sen Hồ Tây, hái hoa và hái gương, hoa tặng người mình kính, gương tặng người mình thương. Hôm ấy đi hái sen, hoa Nguyễn Du tặng cho bà Hà, mẹ của Xuân Hương và anh Nguyễn Nể, và gương có lẽ tặng hết cho Phi Mai để nấu chè hột sen! Sáng sớm đi hái sen, hẹn với nàng láng giềng, nàng đến không biết tự lúc nào, sau khóm hoa đã nghe nàng cười nói ròn rã. Ai cũng thích hoa sen, nhưng mấy ai thích thân hoa sen, có những sợi tơ bền, vấn vương không bao giờ dứt. Nguyễn Du đã kín đáo ví lòng mình, mối tình với nàng không bao giờ dứt. Lá sen màu xanh xanh, hoa sen đẹp xinh xinh, vì đâu ai hái đã làm lìa ngó, mà năm sau chẳng có hoa sen?

I.4.

Trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn, Hồ Xuân Hương trả lời bài Độc Tiểu Thanh ký có câu: “Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ”. Lời thơ đề chùa Trấn Quốc rêu phong cổ kính còn vang vọng. Bài Đề Trấn Quốc tự, Hồ Xuân Hương chép trong Hương đình cổ nguyệt thi tập, tập thơ này gồm những bài ngâm vịnh rất đứng đắn, có lẽ Đại thần Trương Đăng Quế, Tùng Thiện Vương đã đọc tập này nên sánh với Mai Am công chúa với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh (thế kỷ 19, các nhà thơ đương thời nhìn Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đứng đắn, lãng mạn, không có chuyện là một nhà thơ dâm tục).

Ai là người đến đó khách đài trang, dòng dõi quyền quí, cơn gió nam nhẹ lướt êm êm, trăng nước sóng lồng cánh sen vừa mới nở, non nõn tinh khiết. Khói hương chùa như chiếc tàng lộng quý báu, lại bay lên, như cánh cò cánh hạc nối mây. Đoá hoa sen mới nở như nụ cười hàm tiếu nhẹ nhàng rửa tan niềm tục, cỏ xanh mùa xuân như gợi tỉnh niềm mơ. Đến cảnh muốn nhìn lại hỏi chàng. Nguyễn Du lòng đang muốn về quê Hồng Lĩnh, tung tay áo vẫy gọi đàn hồng nhạn bay về phía Đông Nam.

Đề chùa Trấn Quốc (Đề Trấn Quốc tự)

Ai người đến đó, khách đài trang,
Nhẹ lướt êm êm cơn gió Nam.
Trăng nước sóng lồng sen nõn cánh,
Khói hương tàn báu hạc bay ngàn.
Rửa niềm trần tục hoa hàm tiếu,
Gợi tỉnh niềm mơ cỏ thấm xuân.
Đến cảnh quay đầu người muốn hỏi,
Đông Nam tay vẫy nhạn tung đàn.

Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Thuỷ nguyệt ba lung liên quải choát,
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn,
Đông Nam phất tụ nhạn thành quần.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ
I.5.

Bài Hỏi trăng trong thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương, văn bản Landes do Lê Quý chép năm 1882 từ một bản của con cháu Tử Minh, học trò Xuân Hương.ghi lại tâm sự một người con gái mới biết yêu. Yêu Nguyễn Du rồi Xuân Hương tự hỏi với lòng mình. Hỏi vầng trăng muôn thuở, mấy thu qua vẫn tròn, câu hỏi vu vơ cớ sao trăng tròn lại khuyết, hỏi thỏ trên cung trăng bao nhiêu tuổi. Hỏi chị Hằng Nga vợ Hậu Nghệ đã mấy con rồi. Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du con nhà quyền quí ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau thẹn với mặt trời đang lên. Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non, với chàng.

Hỏi trăng

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó,
Hay có tình riêng với nước non.
I.6.

Bài Duyên kỳ ngộ trong văn bản Landes. Xuân Hương tin rằng gặp Nguyễn Du là duyên kỳ ngộ. Vì dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh đốt phá, nên mới ra ở nơi gác tía câu cá của ông anh Nguyễn Khản nên có dịp gần gủi với Xuân Hương. Hồ Phi Mai tin ở duyên số, dù có xa nhau ngàn dậm, có duyên thì sự cũng thành, sẽ cưới nhau. Xin đừng lo lắng mà phí cả tuổi xuân xanh. Gặp nhau nói chuyện thơ văn, thơ hoạ nhau không dứt; tình trong sáng nguyên vẹn, dù có ai dương cung đe doạ hay nói xấu việc gì, mình cũng như lá lành, cung tên bắn gần lá trợt lớt, chẳng sao. Sẵn bút đề thơ, chúng ta cứ đàng hoàng, chỉnh tề cư xử chẳng sợ ai. Không cần thả lá đề thơ như cung nữ Hàn Thuý Tần với chàng Vu Hựu. Lòng ta như chim tới vườn đào, tình sẽ đẹp tươi.

Duyên kỳ ngộ

Nghìn dậm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh,
Tấc gang tay hoạ thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẳn bút đề đường chỉnh chiện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh,
Tuy không thả lá trôi dòng ngự.
Chim tới vườn đào thế mới xinh.
I.7.

Rồi một ngày cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1793, mối tình đúng ba năm vẹn. Mùa Xuân 1790 hẹn gặp Đoàn Nguyễn Tuấn ở Thăng Long, Nước nhà hẹn gặp lại xuân sang Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tặng bạn văn chương họ Nguyễn tại Hoàng Châu,Trung Quốc, mùa hạ sen nở, gần đến cuối hạ mới đi hái sen hái gương quen Hồ Phi Mai. Nguyễn Du báo tin cho Hồ Phi Mai biết chàng trở về Hồng Lĩnh cùng em Nguyễn Ức, xây dựng lại từ đường, đình chùa, cầu Tiên cùng làng Tiên Điền đã bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ làm cỏ, đốt phá năm 1790 do cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh.

Anh Nguyễn Nễ sau khi đi sứ về, làm quan ba năm tại Bắc Hà, Vua Quang Trung mất năm 1792, nay được Vua Cảnh Thịnh thăng Đông Các Đại học sĩ, gia thăng Thái sử, Thự tả Nghị lang, được lệnh về Phú Xuân trông coi văn thư Cơ Mật Viện. Chức vụ gần như thường trực, thầy dạy bên cạnh vị vua trẻ mới lên mười. Nguyễn Nể không thể trông coi việc xây cất nên giao việc này cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức, nhất là Nguyễn Ức có tài kiến trúc, vẽ kiểu,tính toán, chỉ huy thợ về sau cung điện Phú Xuân thời Gia Long Minh Mạng đều do ông chỉ huy xây cất.

Biết tin này Hồ Xuân Hương đau đớn viết bài Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình. Nghĩ đến tình đời sụt sùi rơi lệ, nhân đó cầm bút viết nhanh thơ đưa Nguyễn Du để gửi trình bày tỏ nỗi lòng mình. Mối tình đầu thắm thiết Xuân Hương thệ nguyện ba kiếp hẹn nghĩa non vàng với Nguyễn Du, buồn man mác lòng mình nên thổ lộ cùng chàng. Em chẳng vượt đèo mây Tam Điệp cùng chàng về Hồng Lĩnh, nhưng lời thề nguyền hương lửa ngỡ cũng lên đường theo chàng. Lời nào mình thề hẹn với nhau cùng nước non, chàng có vì trăng gió mà chán chường lòng em chăng? Dù em có đầy đoạ tấm thân em chẳng tiếc. Mình thương nhau làm sao cho trọn tấm lòng. Bài thơ chữ nôm, tựa chữ Hán, chép trong Lưu hương ký.

Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình

Ba sinh tự hẹn nghĩa non vàng
Man mác lòng riêng lại ngỡ càng.
Lối bước đèo mây đành chẳng đã,
Mảnh nguyền hương lửa ngỡ lên đường.
Nước non lời nọ nào chuông chắn,
Trăng gió lòng kia mãi chán chường.
Đày đoạ thân này thôi chẳng tiếc.
Thương sao cho trọn tấm lòng thương.
Chú thích:
Ba sinh: ba kiếp sống tích ba sinh hương hoả, Sách Quần Ngọc chú chép: Tỉnh Lang tới chơi, chùa Nam Huệ tự nằm chơi ngủ quên thấy mình đi chơi non Bồng, gặp một ông thầy ngồi niệm kinh trước mặt có cây hương đang cháy. Tỉnh Lang hỏi, ông thầy đáp: khi trước có một người đi chùa thắp cây nhang này, khấn nguyện, nhang hãy còn cháy, mà người ấy đả trải qua ba kiếp rồi.: Kiếp đầu làm quan Phủ Sứ đất Kiến Nam,thời Đường Huyền Tôn, kiếp sau làm quan, Tây Thục đời Đường Hiến Tôn. Và kiếp thứ ba tên Tĩnh Lang. Tĩnh lang nghe tên giật mình tỉnh dậy, nửa tin nửa ngờ.

I.8.

Bài Giang nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân, Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam, Hồ Xuân Hương viết năm 1793 để tiễn Nguyễn Du về Hồng Lĩnh. Cuộc tiễn đưa nơi trường đình phía Nam sông Hồng, tên gọi là sông Vị Hoàng, Nam Định ngày nay. Nguyễn Du, Nguyễn Ức mang một số tiền khá lớn, có lẽ là tiền thưởng Nguyễn Nể sau khi đi sứ về, đi thuyền kín đáo, an toàn hơn đi đường bộ. Ngày xưa chưa có va-li, người Việt xưa dùng một tấm khăn vải lớn, bọc hết đồ đạc, hai đầu cột chặt để giữ hành lý, hai đầu kia thắt dây dài mang trên vai. Khăn gói bây giờ chia tay nhau vạn dậm, vạn dậm đây chỉ là một cách nói đi xa xăm, vì từ Vị Hoàng về đến Hồng Lĩnh chỉ vài trăm dậm. Nơi trường đình rót chén rượu đặt trên khay mời trao nhau.Cánh buồm sẽ căng lên đôi cánh vì sầu làm thuyền nghiêng nặng. Chàng đi vì nặng việc gia đình, Em cố nén lòng như nước sông sâu để nước mắt chẳng trào. Nhìn lại cây cỏ cũ mùi hương chửa mất. Xa quê bóng lại núi non Hồng Lĩnh cao ngất. Xa nhau rồi còn sẽ có ngày chúng ta gặp lại nhau. Nếu lỗi lời thề non hẹn biển thì thà chết đi trên ngọn sóng đào.

Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam (Giang Nam phụ níp khiêm lưu biệt hữu nhân)

Khăn gói bây giờ vạn dặm nao,
Trường đình rượu tiễn chén mời trao.
Buồm căng đôi cánh sầu nghiêng nặng.
Sầu nén sông sâu nước chẳng trào.
Cỏ cũ lặng nhìn hương chửa mất.
Xa quê quay ngóng núi quê cao.
Xa nhau còn có ngay gặp lại,
Thề biển tha cho ngọn sóng đào.

Phụ níp kim tòng vạn lý dao,
Trường đình tửu tiễn thượng thù giao.
Muộn đôi phàm tịch thuyền thiên trọng,
Sầu áp giang tâm thuỷ bất trào.
Cựu thảo ngưng mâu hương vị tán.
Tha hương hồi thủ vọng cô cao
Tuy nhiên thượng hữu tương phùng nhật,
Thệ hải minh sơn nhất lãng đào.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ
Chú thích:
Giang Nam: Dữu Tín người đời Nam Bắc Triều, làm quan xa nhà lâu ngày không về, có làm bài Ai Giang Nam phú tỏ lòng nhớ thương quê hương, từ đó chữ Giang Nam còn có nghĩa là lòng nhớ thương quê hương.

I.9.

Thạch đình tặng biệt. Trường đình nơi sông Vị Hoàng là một cái đình bằng đá, xây chắc chắn vì ven biển nhiều gió bão lớn, nên còn gọi là thạch đình. Đình đá Vị Hoàng là một bến cảng lớn trên đường đi thuyền vào Phú Xuân, các cuộc đi sứ đi thuyền đến đây, có lẽ sợ đường bộ có truông nhà Hồ và phá Tam giang nguy hiểm. Bản Lưu Hương ký thiếu chữ biệt nên các ông Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn lầm tưởng là một người tên Thạch Đình làm thơ tặng Hồ Xuân Hương. Nguyễn Du đã ứng khẩu bài thơ tặng Hồ Xuân Hương. Bài thơ chữ Nôm của Nguyễn Du.

Bấy lâu nay ta đã quen biết nhau, có tình có nghĩa với nhau nhiều kỷ niệm, nay nặng lòng với việc nhà, việc nước anh phải về quê hương. Khúc phượng cầu kỳ hoàng, lời tỏ tình anh chưa nói cùng em, lòng em đã mơ màng giấc chiêm bao. Có chắc ta yêu nhau chưa cho lửa tình bén cháy, những giọt lệ tình tiếc mùa xuân đi qua. Tình như lá xanh hoa vàng nếu chẳng phụ lòng nhau, thì rồi đây chúng ta sẽ có ngày sum họp. Bài thơ khá chua chát hay Nguyễn Du muốn thử lòng nàng có thật yêu mình không? hay. Xuân Hương yêu tha thiết Nguyễn Du, nhưng chàng có lẽ vì bận hoài bảo công danh, muốn đi vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, nên lòng còn hờ hững. Tròn trặn gương tình cũng có khi.

Thạch đình tặng biệt

Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời,
Nước non sầu nặng muốn đi về.
Cung hoàng dịu vợi đường khôn lọt,
Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
Đã chắc hương đâu cho lửa bén,
Lệ mà hoa lại quyến xuân đi.
Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái,
Tròn trặn gương tình cũng có khi.

Thơ chữ Nôm Thanh Hiên Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương chép trong Lưu hương ký.
I.10.

Bài thơ này Nguyễn Du xứng đáng bị một tát tai, nếu gặp phải người yêu ngày nay, Nhưng Hồ Xuân Hương đã chua xót hoạ lại bằng bài Hoạ Thanh Hiên nguyên vận. Văn bản chép là hoạ Thanh Liên nguyên vận, nhưng Thanh Liên là bút hiệu thi hào Lý Bạch. Bút hiệu Thanh Hiên từ khi về Quỳnh Hải cưới vợ năm 1797 mới dùng, năm 1796 Nguyễn Du còn dùng bút hiệu Chí Hiên. Có lẽ lúc này Nguyễn Du dùng bút hiệu Thanh Liên Chí Hiên chăng?

Bài thơ Hồ Xuân Hương viết: Tay em còn chờ chàng dạy khúc Phượng cầu kỳ hoàng, chờ chàng ngỏ lời cưới em, chàng như cánh phượng đường mây, chàng có tài cao, đường công danh thênh thang đã vội chi. Chua xót đọc bài thơ chàng viết để lại cho em, sao chàng hững hờ duyên em bấy lâu nay mà nở bỏ đi. Thử vàng đá, em treo giá ngọc mà đợi chàng, dù hoa có quý báu như phong gấm, hoa nở cũng có thời gian, em là gái chưa chồng, tuổi xuân nở cũng có lúc, lòng như đào thắm mận xanh còn nhiều niềm vui, chàng ơi, sao đành nở dứt ra đi.

Hoạ Thanh Liên Chí Hiên nguyên vận

Khúc hoàng tay nguyệt còn chờ dạy,
Cánh phượng đường mây đã vội chi.
Chua xót lòng xem lời để lại,
Hững hờ duyên bấy bước ra đi.
Thử vàng đá nọ treo từng giá,
Phong gấm hoa kia nở có thì,
Đào thắm mận xanh còn thú lắm,
Xuân ơi đành nở đứt ra về.

Thơ Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký.
Nguyễn Du có dạy đàn cho Hồ Xuân Hương. Trong thơ Phạm Đình Hổ bài Sở hữu cảm có câu: “Buông đàn cười chẳng gảy, Ngại làm ai chạnh lòng”.
Tốn Phong từ xa đi ngựa đến, đã nghe tiếng nàng đàn: Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14. Tốn Phong đã từng thổi sáo và Hồ Xuân Hương đánh đàn: “Thần vào sáo ngọc tung sao đẩu, Hứng nhập ly quỳnh chén cổ kim. Đàn chuyển tiếng thu vang tỉnh viện, Mộng chuyền xuân bướm ngát thơm chăn”, bài 7.

Thuyền Nguyễn Du ra khơi, để lại một mình Xuân Hương Hồ Phi Mai trên thạch đình khóc nức nở

II Những bài thơ tình gửi đáp Hồ Xuân Hương & Nguyễn Du từ Tiên Điền đến Nghi Tàm (1794-1796)
II.1.

Nguyễn Du về đến Tiên Điền, Hồng Lĩnh không nhà, anh em lưu lạc.Thật sự thì anh em Nguyễn Du chẳng bao giờ ở tại Tiên Điền cả. Những năm cuối cùng nhà Lê-Trịnh. Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại, chức vụ ngang với Thủ Tướng ngày nay, lại kiêm trấn thủ Hưng Yên, Thái Nguyên và Sơn Tây. Tại Sơn Tây Nguyễn Khản giao quyền cho Nguyễn Điều làm Đốc Trấn, có Nguyễn Nể phụ tá. Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ nắm giữ binh quyền tại Hưng Yên. Và tại Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh giữ chức Trấn Tả Đội, Nguyễn Du làm Chánh thủ Hiệu, quân Hùng hậu hiệu, đội quân mạnh nhất Thái Nguyên, Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang làm quân sư. Cai Gia nhân vật này có tên trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vốn là người Phản Thanh Phục Minh Trung Quốc, là tay ‘giặc già’, được Nguyễn Khản thu nạp làm môn hạ, để dạy võ cho các em. Thái Nguyên là nơi nhiều dân Trung Quốc sang khai mỏ, trộm cướp, trốn thuế. Cai Gia là người trị nổi đám người này; Nguyễn Du kết nghĩa sống chết với Cai Gia (Sinh tử giao tình tại. Bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang) nên gọi là anh Cả. Khi nhà Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du, Nguyễn Đại Lang và Nguyễn Sĩ Hữu (tức Nguyễn Quýnh) chạy sang Vân Nam. (Tôi bác bỏ việc Nguyễn Du nhận tập ấm cha nuôi họ Hà, giữ một chức quan võ nhỏ như gia phả ghi.Thật sự Nguyễn Du là đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên).

Hai anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất năm 1786, Nguyễn Nể làm quan ở Phú Xuân, Nguyễn Quýnh bị Tây Sơn giết năm 1790 tại Hà Tĩnh, Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ đại diện binh quyền cho Nguyễn Khản từ Hưng Yên về ở Chu Kiều, Bắc Ninh làm nghề thuốc. Nguyễn Nghi viết truyện thơ Quân Trung Đối dài 1116 câu, và có con là Nguyễn Toản đỗ Tiến Sĩ đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên Ngoại Lang. Nguyễn Trứ làm nghề thuốc, đậu Tam Trường năm 1779 đời Gia Long có ra làm quan Tri phủ Nam Sách, có con là Nguyễn Thích tri phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, Nguyễn Trù tri phủ Vĩnh Tường, và Nguyễn Thị Uyên làm thuốc giỏi được mời vào cung chữa bệnh cho các cung nữ đời Gia Long.Trong anh em Nguyễn Du có lẽ chỉ có Nguyễn Nhưng là ở Hà Tĩnh.

Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, trong danh sách những người ra cộng tác với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở Sùng Chính Viện đời Tây Sơn, có Nguyễn Công con Nguyễn Khản, và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều.

Nguyễn Hành con thứ hai Nguyễn Điều, nhà thơ tài hoa trong năm nhà thơ nhất nước đương thời, lúc này cũng đang ở Hồng Lĩnh, nên có nhiều kỷ niệm về các cuộc đi săn của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du.

Về Tiên Điền, hai anh em Nguyễn Du, ở trong một căn nhà nhỏ trên bến Quế Giang, đầu sông Long Vĩ, cạnh Giang Đình, để tiện việc chở gạch, ngói, gỗ, đá về xây cất bằng thuyền. Nguyễn Du có lẽ nằm nhà trông coi việc trả lương thợ và tiếp nhận vật liệu. Công việc xây dựng lại làng Tiên Điền khá quy mô. Có đến bốn đền thờ họ Nguyễn Tiên Điền: Đền thờ ông Nguyễn Lĩnh Nam tức cụ Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du, đề thờ ông Nguyễn Tiên Lĩnh Hầu tức Nguyễn Huệ (1705-1733) chú Nguyễn Du, đền thờ Xuân Quận Công tức Nguyễn Nghiễm(1708-1776) cha Nguyễn Du, đền thờ Nguyễn Lam Khê tức Nguyễn Khản (1734-1786). Đền thờ Điền Nhạc Hầu tức Nguyễn Điều (1745-1786).ngoài ra còn có chùa Trường Ninh và Cầu Tiên.

Mọi chi phí đều do Nguyễn Nể cung ứng, cuối năm 1794, Nguyễn Du có vào Phú Xuân nhận món tiền thứ hai.

Về Tiên Điền, Nguyễn Du chỉ còn người bạn hiệu là Thực Đình (ăn ở đình làng) tặng cho chiếc áo vải, người bạn dạy học lây lất không đủ sống. Sách vở họ Nguyễn Tiên Điền, không kém gì Phúc Giang thư viện họ Nguyễn Trường Lưu hàng vạn quyển sách, được triều đình sắc phong, bị cháy mười phần còn một hai, chất quanh vách nhà, ngoài cửa một khóm cúc vàng, bếp vắng lặng vì thiếu người đàn bà bếp núc. Nguyễn Du hớp rượu cho hồng sắc diện. Về đây sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du phải Khóc cười thời loạn theo trần thế, bệnh yếu lặng câm mà giữ thân.

Về Tiên Điền bệnh cũ mười năm trước ở Vân Nam tái phát, Nguyễn Du: Nằm bệnh mười tuần bến Quế Giang. Ngày xưa tuần là tuần trăng, nửa tháng, từ trăng tròn đến trăng khuyết. và từ không trăng đến tròn trăng.

II.2.

Nhân có một người quen về Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Nhân tặng, bài này chép trong Lưu hương ký: Chàng đã về quê quán, nơi từ đường của danh gia vọng tộc, cách xa bao non núi. Xuân Hương chẳng có dịp may nào để xông pha về thăm chàng. Mấy hàng chữ viết thăm chàng, nước mắt rơi lai láng, một bài thơ, một mảnh giấy lòng em đợi tin chàng. Muốn thả lá đề thơ nhưng e ngại ngọn nước triều không đưa đến, muốn gửi quà nhiều hơn nhưng e ngại mỏi cánh chim hồng. Ước gì có người tiên hiện xuống nơi trần thế giúp tình ta, có vầng trăng soi tỏ tấm lòng.

Nhân tặng

Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng,
May chăng khôn lẽ dám pha xông.
Mấy hàng chữ mực châu lai láng,
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước.
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng.
Người tiên ví chẳng soi trần thế,
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.
II.3.

Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, Gửi bạn bài số 33 trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương viết: “Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng”, Nguyễn Du đáp lại: “Một vầng trăng sáng tình ta đó”.

Mờ mịt không trung cát bụi đầy trời, tình hình chính trị mờ mịt, nay Quang Trung mất, triều đình rối loạn các đại tướng đem quân đánh nhau. Nguyễn Ánh đang nổi lên ở phương Nam ngày một mạnh, đã chiếm Gia Định, chưa biết tình hình ra sao. Từ ngày về Tiên Điền, đóng cửa nằm khàn trong nhà, một vầng trăng sáng tình ta đó, non Hồng dài trăm dậm, đôi ta chung chính khí tổ tiên hun đúc. Việc đời trước mắt như đám mây nổi, sớm hiện rồi tan, thanh trường kiếm dắt ngang lưng chưa dùng vào việc gì phất phơ trong gió thu. Một mình không nói nhìn khóm trúc trước sân. Sương tuyết tan đi trúc sẽ hoá rồng, tài năng kẻ sĩ sẽ được trọng dụng.

Gửi bạn (Ký hữu)

Mờ mịt không trung gió bụi trần,
Cửa gài, kê gối mãi nằm không.
Một vầng trăng sáng tình ta đó,
Trăm dậm Hồng sơn chính khí cùng.
Trước mắt phù vân, ôi thế sự,
Bên lưng trường kiếm nổi thu phong.
Đầu sân ngóng trúc lòng không nói,
Sương tuyết tiêu tan sẽ hoá rồng.

Mạc mạc trần ai mãn thái không.,
Bế môn cao chẩm ngoạ kỳ trung.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,
Bách lý Hồng Sơn chính khí cùng.
Nhãn để phù vân khan thế sự,
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc.
Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch
II.4.

Bài Thu dạ hữu hoài trong Hương đình cổ nguyệt thi tập, Xuân Hương gửi Nguyễn Du: Câu “Bóng nhạn về đâu, mây ở lại”, Nhạn là Nguyễn Du đã bay xa, mây là Xuân Hương còn ở lại. Bài thơ viết khoảng năm 1794. Đêm tàn, Xuân Hương còn thức, ngơ ngẩn thương nhớ chàng đi xa, nơi lầu mây, rượu rót nhưng không tri âm, không uống để lạnh, nửa vầng trăng tà chiếu lóng lánh bạc. Nước chảy, gió thổi mãi, giọt nước trong hồ đồng rơi đều. Hoa hay trăng tự lòng Xuân Hương, lòng Xuân vắng vẻ, Xuân hứng không nhiều ư? Bóng chàng như bóng chim nhạn bay về đâu? Chỉ còn nghe tiếng dế trùng than khóc, dòng nước trôi mãi, đêm tàn thêm lo.

Đêm thu cảm hoài (Thu dạ hữu hoài)

Đêm tàn người thức lòng ngơ ngẩn,
Rượu lạnh lầu mây bạc ánh tà.
Nước chảy gió đùa trơ mặt ngọc,
Hoa hoa, nguyệt nguyệt nỗi lòng ta.
Xuân vắng vẻ,
Xuân hứng chẳng nhiều ư?
Bóng nhạn về đâu mây ở lại,
Dế trùng than khóc nước trôi hờ,
Đêm tàn nên lo.

Dạ thâm nhân tỉnh độc trù trù
Vân lâu tửu lãnh ngân hoàn bán.
Thuỷ khoát phong trường ngọc lậu cơ.
Hoa hoa, nguyệt nguyệt chủ nhân cô.
Xuân tịch tịch,
Xuân hứng bất đa hồ?
Nhạn ảnh hà qui vân tự trụ.
Trùng thanh như khốc thuỷ không lưu;
Tuế án tu liên.
Nhất Uyên dịch thơ

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương.
II.5.

Nguyễn Du phúc đáp bài Thu da hữu hoài của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu dạ I trong Thanh Hiên thi tập: Anh đã nghe tiếng dế trùng than khóc nơi tường đông, vì mây ở lại Thăng Long với em nên Hồng Lĩnh trời lạnh ngắt không một vầng mây.

Trời đầy sao sáng, sương móc trắng như bạc, tường đông dế gặp lạnh kêu buồn thảm, chua xót (tiếp ý dế khóc bài Thu dạ hữu hoài) Bầu trời một màu lạnh ngắt không một làn mây. Mây ở hết bên em rồi, anh chỉ là cánh chim đơn côi trong trời lạnh giá. Thấm thoát thời gian qua nhanh, tuổi càng cao, tóc bạc vì nhiều suy nghĩ trông rất thảm thương. Ở mãi nơi đây, núi xanh chưa chán người, người đi chơi xa bên trời lòng mỏi mệt, suốt năm nằm bệnh bến Quế Giang. Sông Quế là một tên khác của sông Lam, dưới chân núi Hồng Lĩnh.

Đêm thu I (Thu dạ I)

Đầy trời sao sáng bạc sương dâng,
Dế lạnh tường đông thảm thiết buồn.
Vạn dậm tiếng thu rung lá rụng,
Một trời khí lạnh vắng mây vương.
Già rồi tóc bạc lòng thêm xót,
Ở mãi non xanh chẳng chán chường.
Ngán nỗi bên trời lòng khách mệt,
Suốt năm nằm bệnh Quế giang tân.

Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
Lão lai bạch phát khả liên nhữ,
Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân.
Tối thị thiên nhai quyện du khách,
Cùng niên ngoạ bệnh Quế giang tân.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
II.6.

Xuân Hương đã phúc đáp bài Thu dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu vũ (Mưa thu). Nàng đã khóc khi nghe Nguyễn Du bệnh gần cả năm, tóc đã nhuốm bạc. Trời ảm đạm mây mù dăng mờ mịt, lòng em như mây (tiếp ý mấy bài Thu dạ hữu hoàiThu dạ I), nhưng mây đầy trời ảm đạm và mù mịt, tí tách mưa thu rơi trên sân vắng. Đầu cành cây khô giọt lệ dài ngắn, trên lá chuối vàng, tiếng thưa mau. Ngâm đọc xong bài Thu dạ I, đê mê như mơ thương nhớ chàng cách xa ngàn dậm, sầu vấn vương dăng mắc mối tình năm canh. Nơi khuê phòng, người nhan sắc, mặt hoa đau khổ vô cùng, một mảnh lòng sầu vẽ mãi không thành.

Mưa thu (Thu vũ)

Trời thảm mây dăng tối mịt mùng,
Mưa thu tí tách nhỏ ngoài sân.
Cây khô dài ngắn rơi hàng lệ.
Tàu chuối vàng tơi tiếng chậm nhanh.
Ngâm dứt đê mê sầu vạn dặm,
Buồn dâng quạnh quẽ nỗi năm canh.
Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc,
Một phiến sầu vương vẽ chẳng thành.

Thiên cách vân âl thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.
Doản trường khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình.
Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ.
II.7.

Nguyễn Du trả lời bài Thu vũ của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu dạ II.

Tiết bạch lộ tháng tám âm lịch, hơi thu đã già, qua tháng chín tà tiết sương dâng, không phải chỉ lòng em đầy mây mù đâu, lòng anh cũng lạnh lẽo sương dâng mờ mịt cây cỏ quanh bến giang thành đìu hiu. Bên đèn khuya quạnh quẽ ngóng đợi.Vắt tóc như Chu Công bận lo việc nước, vừa gội đầu vừa tiếp sĩ phu, phải vắt ba lần mới gội đầu xong. Lo cái chí nguyện tàn phai theo ngày tháng, non sông nghìn dậm càng nghĩ càng nhớ càng lo lắng trong ngày dài. Phong cảnh bốn mùa thay đổi riêng mình ngậm ngùi buồn, trời chớm lạnh, mới hay không áo là khổ, nghe tiếng chày người khuê phụ đập vải trong chiều, lòng nhớ đến em nơi khuê phòng trông ngóng.

Đêm thu II (Thu dạ II)

Móc trắng sương thu dăng mịt mùng,
Dìu hiu cây cỏ bến giang thành.
Đèn khuya quạnh quẽ đêm dài ngóng,
Vắt tóc lo hoài chí nhạt tan.
Vạn dặm giang sơn dài nỗi nhớ,
Bốn mùa mây nước ngậm ngùi trông.
Chớm lạnh mới hay không áo khổ,
Tiếng chày khuê phụ, bóng chiều phong.

Bạch lộ sương vi thu khí thâm,
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm.
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ,
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm.
Thiên lý giang san tần trường vọng,
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú Thích:
Bạch lộ: sương móc trắng, tiết bạch lộ là tháng 8 âm lịch.
Ác phát: Chu Công bận lo việc nước có kháh lại, ông vắt tóc lên ra tiếp, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.

II.8.

Rồi mùa thu sau, Xuân Hương lại gửi đến Nguyễn Du bài thơ chữ Hán Cố kinh thu nhật trong Hương đình cổ nguyệt thi tập: Thấm thoát đã bao mùa thu qua, bóng trăng xế bóng, tuổi càng cao ngày một quá thì, nơi chốn cũ phồn hoa nhớ xưa cùng mời rượu chàng. Dòng sông Tô nước chảy về hướng Tây không ngừng nghỉ, trời quang đảng trông rõ bóng núi Tam Đảo phía Bắc xa xa. Dưới đèn nơi Cổ Nguyệt đường thương chăn xanh, vật cũ di sản nho học dòng dõi cha ông. Sương móc xuống rơi đọng quanh nhà, sương móc trắng không chỉ rơi nơi anh (bài Thu dạ II), mà nơi em cũng rơi đọng quanh nhà. Ước gì đôi ta thử gặp lại nhau cho đỡ mong nhớ? Năm hết, tết sắp đến, anh mãi xa thế mãi a?

Ngày thu kinh đô cũ (Cố kinh thu nhật)

Thấm thoát đường thu ánh nguyệt tà
Chốn xưa rượu chuốc chén phồn hoa.
Dòng Tô nước cuốn về Tây mãi,
Tam Đảo trời quang vọng Bắc xa.
Đèn nguyệt chăn xanh thương vật cũ,
Sương buông móc trắng đọng bên nhà.
Ước gì gặp lại vơi mong nhớ
Khách cũ, năm tàn mãi thế ai?

Nhiễm nhiễm chinh đồ thu nguyệt tà.
Nhất bôi hoàn đối cựu phồn hoa.
Nhất Tô thuỷ lạo Tây vô tận,
Tam Đảo tình quang Bắc vọng xa.
Đăng nguyệt thanh chiên bi cố vật,
Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ gia.
Thử lai tương đối trùng tương đắc
Khách cũ niên thâm nhược nại hà?

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Hương đình cổ nguyệt thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Thanh Chiên: chăn xanh lót bằng tơ tằm thô, hay bông vải, làm mền đắp cho khỏi lạnh. Vương Hiến Chi đời Tấn, đêm thấy kẻ trôm vào nhà lấy nhiều đồ vật. Ông ung dung bảo với tên trộm rằng: Lấy gì thì lấy nhưng cái chăn xanh là vật cũ của nhà ta, nên bỏ trả lại ta. Về sau người ta dùng chữ thanh chiên để chỉ những nhà dòng dõi nho học.

II.9.

Nguyễn Du phúc đáp bài Cố kinh thu nhật của Hồ Xuân Hương bằng bài Khai song, dùng lại điển tích thanh chiên và cũng ý mùa thu. Nguyễn Du vẫn giữ mãi cái chăn xanh, như tấm lòng yêu thương nàng, và cho biết đang chữa bệnh nên chậm thư phúc đáp.

Cảnh vật trước nhà nay ra sao, thong thả mở cửa sổ, thấy cảnh vật tươi vui, anh nằm đóng cửa, bệnh chẳng biết trời trăng gì. Sáu tháng qua có gió lớn đưa cánh chim Bằng bay mãi không nghỉ. Phải chăng chim Bằng là Bằng quận công, gặp thời nhứ gió bay cao. Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ Hoàng Đình Bảo, khi Bảo bị kiêu binh giết, trốn vào Nam phò Tây Sơn, đem quân ra Bắc diệt Trịnh thao túng quyền hành Bắc Hà rồi bị tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm giết. Tuy nhiên tình hình lúc Nguyễn Du làm bài này là lúc Gia Long liên tiếp thắng nhiều trận lớn từ Gia Định đang đánh tới, Bình Thuận, Diên Khánh Nha Trang. Một sân mưa đọng kiến bò cao, xã hội đầy những kẻ thấp kém bất tài thừa cơ nước lụt bò lên cao. Nguyễn Du ám chỉ quân Tây Sơn thời mạt vận chăng? Khác với anh Nguyễn Nể phò nhà Tây Sơn, được vua Quang Trung trọng dụng, ưu đãi, hai lần được đi sứ, được giao cho trấn đóng Thành Bình Định, quê hương nhà vua, được dâng sách, dạy vua đọc hàng ngày và thảo chiếu biểu cho Vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Du theo Gia Long và khinh miệt Tây Sơn, khi cho Tây Sơn là kiến, khi là sâu trùng (“Cóc nhái quần bếp vắng, Sâu trùng bò mé ngoài”, bài Bất mị) Dòng dõi nho gia, chiếc chăn xanh vật cũ, anh vẫn giữ mãi, giấy rách giữ lấy lề, giữ thanh danh ông cha mình. Tóc bạc rồi, tài năng chí khí mình như thế mà chưa làm nên được việc gì thật quái lạ. Bệnh tái phái, anh đang lo chạy chữa nên chậm thơ phúc đáp thơ em.

Mở cửa sổ (Khai song)

Trước nhà cảnh vật đã ra sao,
Mở cửa ngày nhàn sinh ý nhiều.
Sáu tháng gió tung bằng lượn mãi;
Một sân mưa đọng kiến bò cao.
Chăn xanh vật cũ khư khư giữ.
Tóc bạc hùng tâm luống nghẹn ngào.
Trở bệnh hãy còn lo chạy chữa,
Biết chi Phạm Trọng Chánh đến nhà nao?

Môn tiền yên cảnh cận như hà?
Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa.
Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Tái bệnh thương tu điều nhiếp lực,
Bất tri Phạm Trọng Chánh đáo thuỳ gia.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa: Sách Trang Tử, thiên Tiêu dao du: Loài chim ấy thấy biển động bèn bay sang biển Nam. Chim Bằng bay qua biển Nam, làm sóng nước nổi lên ba ngàn dậm, nương gió bay lên chín vạn dậm, bay sáu tháng mới nghỉ. Bởi vậy khi chim bằng bay lên cao, cưỡi lên lớp gió dưới nó.

II.10.

Xuân Hương lại gửi cho Nguyễn Du một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sự: Ngọn gió Tây đêm qua mang lạnh về, dậu cúc dìu hiu dù không có tuyết. Mưa rơi nặng mặt nước sông mờ mịt, mưa dứt, trơ trọi một đám mây núi như có ai vẽ đường nét mi. Sen tàn cuối hạ còn lưu lại một chút hương mùa xuân cũ. Chim hót có thấu chăng cõi lòng mình,mỗi lời còn đọng mối tình thương nhớ quê. Trong thơ Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, gió Tây không chỉ là gió Lào từ hướng Tây, mà là quân Tây Sơn ra Bắc, do đó ta có thể đọc một cách khác những ẩn ý trong bài thơ tả cảnh để nói lên tình hình chính trị đương thời. Quân Tây Sơn ra Bắc làm cho tình hình đìu hiu. Cuộc chiến đang diễn ra trong Nam với quân Chúa Nguyễn, tình hình vẫn còn mờ mịt. Nay chỉ còn một mình Vua Tây Sơn nơi đất Bắc, triều đại nhà Lê suy tàn nhưng lòng người cũng còn nhớ đến. Có ai thấu chăng lòng mình còn nhớ đến quê hương.

Ngày thu tức cảnh (Thu nhật tức sự)

Đêm qua lành lạnh gió Tây về,
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi.
Mưa nặng sông chia mờ mặt nước,
Mây trơ núi biếc vẽ đường mi
Sen tàn cuối hạ làn xuân rớt,
Liễu rũ hương thừa áo biếc che.
Chim hót nỗi mình ai có thấu,
Lời lời còn đọng mối tình quê.

Tây phong tạc dạ áp hàn chi,
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị chi.
Mật vũ tà phi phân thuỷ diện,
Cô vân miêu chức viễn sơn mi.
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới,
Liễu bạng hương du lão thuý y,
Đề điểu mạc phi tri ngã huống.
Thanh thanh trường động cố hương tri.

Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương, Hương đình cổ nguyệt thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
II.11.

Nguyễn Du lại viết một bài thơ Thu nhật ký hứng, mở đầu bằng chữ Tây Phong đáp lại bài thơ Thu nhật tức sự của Hồ Xuân Hương. Gió Tây mới đến, anh vẫn chưa về mà đã thấy khí trời lạnh lắm. Non sông nước cũ ngắm trông buổi chiều tà. Dù có xa em thân thế mặc như đám mây trôi nổi. Giật mình sợ cái cảnh già đến, đêm qua tiếng gió thu ở đâu nổi lên. Cười mình đầu bạc mà còn vụng thu xếp, đầy sân. Ta đọc lại bài thơ bằng hậu ý, Nguyễn Du tâm sự: Vì Tây Sơn ra Bắc nên chàng chưa về Thăng Long, không khí chính trị làm cho lòng dạ tái tê. Nhìn non nước cũ nhà Lê thời vận đã tàn, ở quê mình mà cũng như quê người, thân phận tha hương vẫn như đám mây trôi nỗi (khóc cười theo thời thế, im lặng giữ thân) Sợ rằng tuổi ngày một cao mà chưa làm nên việc gì, Đêm trước có nghe gió thu, từ phương Nam (Lạy trời cho có gió Nồm, để thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra) mọi người đều hay biết. Tự trách mình bạc đầu còn vụng tính, nhìn lá vàng rơi rụng đầu hè.

Ngày thu cảm hứng (Thu nhật ký hứng)

Gió Tây mới đến khách chưa về,
Khí lạnh mười phần dạ tái tê.
Nước cũ non sông trời lặng ngắm,
Quê người thân thế gửi mây che.
Cái già chợt sợ nay đà đến,
Thu đến nơi nơi đêm trước nghe.
Tự trách bạc đầu ta vụng tính,
Lá vàng rơi rụng, rụng đầu hè.

Tây phong tái đáo bất qui nhân,
Đốc giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị,
Hà xứ thu thanh tạc dạ vân,
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Mãn đình hoàng lạc diệp phân phân.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập. Nhất Uyên dịch thơ.
Chú thích:
Bạch đầu. Nguyễn Du thường tả mình đầu bạc, có lẽ ông bị bệnh bạc tóc sớm. Thế kỷ 18,19 tuổi thọ trung bình người Việt Nam chỉ trên năm mươi. Đặc biệt làng Tiên Điền có tục ăn lão năm 53 tuổi, trên tuổi này được xếp vào hạng trưởng lão, ăn trên ngồi trước trong làng. Anh em Nguyễn Du chỉ sống trên dưới 55 tuổi.
Tha hương: Nguyễn Du còn ở Hà Tĩnh, đang nghĩ chuyện tha hương, vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh

II.12.

Thời gian xa cách thấm thoát đã hai năm. Nguyễn Du vẫn biền biệt nơi Hồng Lĩnh. Mẹ Xuân Hương thúc ép nàng lấy chồng, Có anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, con cụ Lang, cậy người mai mối. Nhân có người về Hà Tĩnh. Hồ Xuân Hương gửi thơ cấp báo:

Vài hàng viết thư gửi chàng mà chạnh lòng nước mắt rơi, tưởng rằng thức suốt năm canh ánh trăng vẫn còn đó, tưởng rằng em (nguyệt) có thể chờ đợi anh lâu hơn, nhìn lá nhuộm sương mai buổi sớm mà lòng thẹn (vì đã hẹn với chàng), màu sương khói chỉ làm rộn ràng nỗi buồn, bước ra ngoài nhà thẩn thơ trước gió, xa xa tiếng địch ai thổi chói tai (lời anh Lang xóm Tây theo ve vản nàng), muốn hỏi trăng già sao khe khắc với tình duyên đôi ta, trêu nhau làm chi mà xe mối tơ không trọn vẹn để đôi ta xa nhau. Phạm Đình Hổ đã chứng kiến, việc mẹ gã Xuân Hương cho anh thầy Lang, có lẽ cũng là học trò cụ Đồ Diễn, thư sinh ngày xưa không thi cử làm quan thì cũng hành nghề: Y, Lý, Bốc, Số, anh Lang không thi cử, trở về tiếp tục nghề nghiệp của cha. Bài Hoài cổ (Nhớ xưa) Phạm Đình Hổ viết về Xuân Hương, tôi dịch như sau: Năm xưa hoa đào nở, Em tôi học cài trâm. Năm nay hoa đào nở. Mẹ gả xóm Tây gần. Năm nay hoa đào nở, Gió xuân sao lạnh lùng. Em nhìn hoa mà khóc. Sầu vương nét mi cong. Năm nay hoa đào nở, Cỏ xuân mượt trời mơ. Bên hoa em cười nụ, Ngâm thành tự đề thơ.Phạm Đình Hổ là người ham học hỏi, thấy người tài là đến chơi, thấy nhà ai có nhiều sách hay thì đến đọc, thấy việc gì cũng ghi chép. Trong thơ văn ông, tôi khám phá, ông chứng kiến mối tình Xuân Hương với Nguyễn Du, với anh Thầy Lang, với Mai Sơn Phủ, và cho Xuân Hương mượn tiền để mở quán sách Phố Nam thành Thăng Long, cạnh đền Lý Quốc Sư và trường ông Nghè Phạm Quý Thích, sau khi Xuân Hương dứt tình với Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà. Xuân Hương không tự đề thơ, mà viết bài thơ cuối cùng cho Nguyễn Du.

Hoạ nhân

Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu;
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lâu.
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.

Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Lưu hương ký.
II.13.

Nguyễn Du phúc đáp bằng bài thơ Ký mộng, mơ Xuân Hương, bỏ mẹ, bỏ lớp dạy trẻ, vượt đèo Tam Điệp đầy hổ báo, vượt Sông Lam lắm cá sấu, đường đi thật hiểm trở, vào Hồng Lĩnh thăm mình. Tỉnh dậy viết bài Ký mộng gửi Xuân Hương, nên năm 1813 khi tình duyên tan vỡ, đò đã qua mấy chuyến, trong bài Cảm Cựu Khiêm Trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu, mừng chàng làm Chánh Sứ: Xuân Hương nhắc lại: Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Đáp lại các câu thơ: Mộng đến ngọn đèn sáng, mộng đi gió lạnh lùng, giai nhân nào thấy nữa, lòng ta rối tơ vương.

Bài Ký mộng Nguyễn Du viết: Thời gian như nước chảy suốt ngày đêm, người đi xa mãi chưa về, bao năm rồi không gặp mặt nhau,biết làm sao vơi hết nỗi nhớ thương. Nay trong mộng thấy rõ ràng, nàng đến tìm ta nơi bến sông (Giang Đình). Vẻ mặt vẫn như xưa, nhưng áo quần nàng không buồn chăm sóc. Thoạt tiên nàng kể nỗi đau ốm, rồi than thở nỗi chờ mong những ngày xa cách. Sụt sùi không nói hết lời, phản phất như cách nhau một bức màn sa. Bình sinh vốn không biết đường. Mộng hồn chẳng rõ thực hay hư. Núi Tam Điệp (Ba Dội) nhiều hổ báo, sông Lam có lắm cá sấu. Đường đi hiểm trở khó khăn, thân gái biết nhờ cậy ai? Mộng đến ngọn đèn cô đơn giọi sáng, Mộng tàn gió thổi lạnh lùng, Mỹ nhân không thấy nữa, Lòng ta rối như tơ vương, Nhà trống ánh trăng nghiêng soi vào, chiếu xuống tấm áo cô đơn của ta. Ngày trước ông Đào Duy Anh, trong cuốn Khào luận Truyện Kiều căn cứ vào câu Du tử hành vị quy, cho rằng Nguyễn Du nhớ vua Lê Chiêu Thống. Các ông Lê Thước, Trương Chính trong thơ Chữ Hán Nguyễn Du cho rằng nhớ một người bạn cũ, sau đó lại cho rằng nhớ người vợ trước em Đoàn Nguyễn Tuấn. Riêng tôi, Nguyễn Du không gọi là hiền thê, vợ hay bạn hay vua mà gọi là mỹ nhân, Mỹ nhân đó chính là Xuân Hương Hồ Phi Mai, lúc đó Nguyễn Du còn cô đơn chưa vợ. Ba mươi tuổi Nguyễn Du mới về Quỳnh Hài cưới vợ, lúc ở Hồng Lĩnh chỉ ở một mình bếp lạnh hoang vắng.

Ghi lại giấc mộng (Ký mộng)

Dòng nước ngày đêm chảy,
Người biệt chốn cố hương.
Bao năm không gặp mặt,
Làm sao hết nhớ thương.
Trong mộng rành rành thấy,
Tìm ta nơi bến sông,
Dung nhan vẫn như trước,
Y trang buồn biếng chăm.
Trước kể nỗi đau ốm,
Rồi than những ngày xa.
Nghẹn ngào không nói hết,
Dường cách bức màn sa.
Bình sinh không thuộc lối,
Mộng hồn biết thật chăng?
Núi Điệp đầy hổ báo,
Sông Lam lắm thuồng luồng,
Đường đi thật hiểm trở,
Phận gái nhờ ai không?
Mộng đến đèn côi sáng,
Mộng tan gió lạnh lùng,
Người đẹp nào thấy nữa,
Lòng ta rối tơ vương.
Nhà trống vầng trăng xế,
Soi manh áo cô đơn,

Thệ thuỷ nhật dạ lưu,
Du tử hành vị qui.
Kinh niên bất tương kiến,
Hà dĩ uý tương ti (tư).
Mộng trung phân minh kiến,
Tầm ngã giang chi mi.
Nhan sắc thị trù tích,
Y sức đa sâm si.
Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,
Kế ngôn cửu biệt ly.
Đái khấp bất chung ngữ,
Phảng phất như cách duy.
Bình sinh bất thức lộ,
Mộng hồn hoàn thị phi?
Điệp sơn đa hổ trĩ,
Lam thuỷ đa giao ly,
Đạo lộ hiểm thả ác,
Nhược chất tương hà y?
Mộng lai cô đăng thanh
Mộng khứ hàn phong xuy,
Mỹ nhân bất tương kiến,
Nhu tình loạn như ti.
Không lâu ốc tà nguyệt,
Chiếu ngã đan thường y.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch.
Chú thích:
Cách duy: cách bức màn. Hoàng hậu vua Hán Vũ Đế là Lý phu nhân, sắc đẹp, múa giỏi, chết sớm. Vũ Đế rất thương tiếc. Có người phương sĩ nói có thể chiêu hồn Lý phu nhân về, vua bằng lòng. Ban đêm, người ấy bèn giương màn, đốt nến, để vua ngồi tron màn, nhìn sang một bức màn khác, thấy bóng một người giống Lý phu nhân.
Nhược chất: tư chất phụ nữ yếu đuối.
Nhu tình: mối tình vương vấn thắm thiết

II.14.

Sau khi gửi bài thơ này cho Hồ Xuân Hương năm 1795. Hồ Xuân Hương hiểu mối tình mình chỉ là giấc mộng. Nguyễn Du thôi làm Hồng Sơn Liệp Hộ mà làm Nam Hải Điếu Đồ, đi câu cá biển Nam Hải. Tâm sự Nguyễn Du lúc này trong bài Tạp thi I viết: “Bạc đầu tráng sĩ ngửng trời than, Dựng nghiệp mưu sinh thảy lỡ làng, Thu cúc, xuân lan thành mộng ảo. Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh”. Nguyễn Du cho rằng chuyện tình của mình với cô Cúc làng Trường Lưu hay với Xuân Hương làng Nghi Tàm đều đã thành mộng ảo.Về Hồng Lĩnh, Nguyễn Du tâm sự với người bạn cũ Thực Đình (bút hiệu có nghĩa là người ăn ở đình làng) Họp bạn khó tìm người mắt biếc. Sau vụ khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, người sống sót chẳng ai dám tỏ một thái độ gì. Do đó Nguyễn Du không thể ở lại, dạy học, cũng không thể tìm ra thủ hạ, do đó, tôi bác bỏ đoạn gia phả Nguyễn Tiên Điền chép: Nguyễn Du từ Hà Tĩnh dẫn thủ hạ mang quân lương ra tiếp rước Vua Gia Long. Và được đưa ra Bắc phong tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam. Trên bước đường tìm mánh mung vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, có lẽ Nguyễn Du đã rơi vào bẫy của công an biên phòng của Hiệp Trấn Hà Tĩnh Nguyễn Văn Thận, nên thay vì vào Khánh Hoà, Nguyễn Du bị chở thẳng vào tù. Nguyễn Văn Thận nể tình bạn thân với Nguyễn Nể, và tài thơ văn Nguyễn Du nên chỉ cho học tập cải tạo sơ sơ mười tuần (ba tháng) trong. Bài Cảm hứng trong tù Nguyễn Du cho rằng nổi lòng mình không ai biết: Tâm sự chút lòng, ai biết tỏ, Như sông Quế sâu dưới non Hồng. Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, vua Gia Long tiến đánh, Thận thua trận chạy ra Thanh Hoá và bị giết ở đó.

Tin tức Nguyễn Du bị tù đã ra tới Thăng Long. Hồ Phi Mai lên đường về nhà chồng anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm.

Nguyễn Du sau khi ra tù, ban đêm Nguyễn Du đã đi bộ trốn ra Thăng Long bài Dạ hành: “Trăng xế biển Nam ngàn dậm chiếu, Đường xa gió lộng một người trông. Đêm đen mờ mịt bao giờ sáng, Đầu bạc mà còn vụng dấu thân”. Trên đường đi Nguyễn Du phải đi ăn xin: Bài Khuất thực, Nguyễn Du viết: Chống gươm ngạo nghễ thét trời xanh, Ba chục năm trong bùn hôi tanh, Chữ nghĩa ích gì cho cuộc sống, nào ngờ đói rách người thương tâm.

Đến Thăng Long Nguyễn Du đến một quán khách quen biết bên bờ Hồ Tây, chủ quán cho hay Xuân Hương Hồ Phi Mai đã đi lấy chồng, anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Chủ quán mời một bình trà, Nguyễn Du uống bao nhiêu lần, không tiền nên chỉ xin nước sôi uống trà lạt, ngồi viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên. Bài thơ oán trách Hồ Xuân Hương thậm tệ, nhưng nàng vẫn trân trọng lưu trong tập thơ Lưu Hương ký. Đã giao du với nhau mấy năm tròn, thề thốt tình thâm giao xe, nón mãi mãi còn. Xe nón do chữ Xạ lạp theo sách Phong thổ ký, phong tục nước Việt thuần phác. Trong buổi sơ giao, hai bên làm lễ kết nghĩa thường có lời thề: Anh cỡi xe, tôi đội nón, khi gặp nhau sẽ xuống xe vái chào tôi., anh cầm ô tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau tôi sẽ xuống ngựa chào anh. Thơ Khổng Bình Trọng: Việc đời biến đổi khôn lường, chớ vì cởi xe mà khinh kẻ đội nón. Vì thế tình thân là xạ lạp chi giao, mối giao tình xe nón. Không biết tại lòng nàng tham giàu sang mà thay dạ đổi lòng, lòng đen tựa mực đi lấy chồng thầy thuốc, còn tôi học tập cải tạo mới ra, tình tôi vẫn thắm như son, một lòng yêu nàng. Tai tôi chưa quên lời vàng ngọc của nàng, nàng có mắt hãy xem tôi làm nên sự nghiệp với nước non. Chớ trách chúa xuân, vì sợ chờ đợi tôi mà mỏi mệt sợ lỡ thì. Tình nàng sớm mận tối đào như thế có xứng đáng dòng dõi con nhà quyền quí chăng? Còn có bài thơ trách móc nào đau đớn hơn.

Chí Hiên tặng I

Chữ giao nguyền với mấy năm tròn,
Xe nón tình kia mãi mãi còn.
Chẳng biết dạ người đen tựa mực,
Sao hay lòng khách thắm như son.
Còn tai chữa lãng lời vàng ngọc,
Có mắt mà xem mặt nước non.
Chớ trách chúa Xuân lòng mỏi mệt;
Mận đào được thế tiếng công môn.

Thơ chữ Nôm Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương lưu trong Lưu hương ký.
II.15.

Bài Chí Hiên tặng II, Nguyễn Du không trách móc nữa mà bày tỏ lòng mình. Rủi may nào xá gì, nghĩ rằng cùng tắc thông, thông tắc biến, biến tắc hoá theo Kinh Dịch. Ra Bắc phen này (1796) mong làm nổi việc, Nghĩ lại việc vào Nam (1794) cũng hoài công, Hà Tĩnh chẳng ai theo, chẳng thể lập cứ địa chống Tây Sơn, cũng chẳng thể vượt biển vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh. Bạn thơ cũ nay đâu, ngồi uống trà một mình, uống bao nhiêu bình nước rồi ấm trà đã nhạt. Quán trọ đêm qua năm canh không ngủ được vì manh áo quá mong manh, trời đã vào lập đông. Trông ra sông hồ mù mịt sương khói từ biển thổi vào. Người xưa Cổ Nguyệt đường lòng như tấm gương trong nào thấy đâu?

Chí Hiên tặng II

Rủi may nào sá nghĩ cùng thông,
Chưa dễ tri âm tỏ nỗi lòng.
Ra Bắc phen này mong nổi việc.
Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công.
Bạn tao năm hết mâm trà lạt.
Quán khách canh chảy mảnh áo mong.
Gớm nhẽ trông ra mù khói bể
Nguyệt đường bao nã thấy gương trong
Nguyễn Du tìm đến nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, bên bờ sông Nhị, Đoàn đang làm quan Tây Sơn, nhà cao cửa rộng: Trên bờ sông Nhị nhà chen gần, Đã chiếm cả thành hết cảnh xuân, Cầu gác Đông Tây cao ngất dựng. Chẳng kém gì các biệt thự các vị quan ngày nay. Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn gả em gái út, và giao cho gia trang tại Quỳnh Hải năm 1797. Từ đây Mùa Xuân Quỳnh Hải, sau khi góc biển chân trời ba chục tuổi, Nguyễn Du mới biết đến hạnh phúc: Trăng sáng đầu xuân toả ngập tràn, Bao giờ trăng chẳng nhạt thuyền quyên, Một trời xuân hứng nhà ai lạc. Muôn dậm Quỳnh Châu nguyệt sáng ngần. Ở đây Nguyễn Du chấm dứt cuộc đời Mười năm gió bụi có vợ con, dạy học, dạy văn và võ, hoàn tất Truyện Kiều. Năm năm Quỳnh Hải (1797-1802) Nguyễn Du đã giàu có, nên khi Vua Gia Long kéo quân ra đất Bắc đánh bắt vua Tây Sơn, Cảnh Thịnh. Nguyễn Du từ Quỳnh Hải dẫn thủ hạ, học trò và tráng đinh Quỳnh Hải, đem theo lương thực, ngựa,bò, heo dâng sớ đón rước nhà vua. Đến Phù Dung trấn Sơn Nam thì gặp Vua Gia Long, vua phong ngay cho làm tri huyện Phù Dung. Sự kiện này tương tự như Phi Tử thời Chiến Quốc, người đất Phù Ngưu dâng ngựa lên Vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung nước phụ chư hầu. Từ đó Nguyễn Du có tên Phi Tử, Nguyễn Hành trong Minh Quyên thi tập bài Đi săn có nhắc đến bút hiệu này.

III Độc Tiểu Thanh ký bài thơ Nguyễn Du gửi Hồ Xuân Hương
III.1.

Nhờ ba năm lưu lạc (1786-1799) thành nhà sư Chí Hiên đi muôn dậm chu du Trung Quốc, Nguyễn Du nói thạo tiếng Trung Quốc, nên khi ra làm quan được mấy tháng từ Tri huyện Phù Dung, Nguyễn Du được thăng lên Tri phủ Trường Tín đặc trách tiếp sứ Thanh sang phong vương vua Gia Long. (Nguyễn Án được bổ làm tri huyện thay Nguyễn Du ở Phù Dung). Đường công danh thăng tiến, nhưng người vợ họ Đoàn qua bốn lần sanh, chỉ để lại một con Nguyễn Tứ và qua đời. Mùa thu năm 1804, Nguyễn Du xin nghĩ bệnh một tháng. Từ Thường Tín, Nguyễn Du về thăm lại Cổ Nguyệt đường bên Hồ Tây, đến nơi thì vườn cảnh đã hoang vu thiếu bàn tay chăm sóc của Hồ Phi Mai.

Từ khi lấy anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, chẳng bao lâu anh thầy Lang mất, nàng lại trở về với mẹ, Cổ Nguyệt đường dạy học, rồi yêu Mai Sơn Phủ, mối tình để lại những bài thơ nồng nàn thắm thiết, thề thốt. trong Lưu Hương ký. Mai Sơn Phủ cũng người ở Vinh (Vịnh Phố) trở về quê để cậy cha mẹ cưới hỏi, chàng về quê thì biệt tăm trong chiến tranh, trong trận đánh cuối cùng vua Gia Long và Tây Sơn. Hồ Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Phú thì gặp một học trò cũ của cha, là Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, Xuân Hương nhận làm lẽ, nhưng vợ cả ghen tuông, nàng đang đau ốm, có thai 6 tháng, thân phận như nàng Tiểu Thanh.

Bên song cửa Cổ Nguyệt đường, Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh ký gửi Xuân Hương Hồ Phi Mai. Vườn cảnh Cổ Nguyệt đường nơi Tây Hồ đã hoang vu vì thiếu bàn tay chăm sóc của nàng, Son phấn có thần dù chôn vẫn còn hận. Văn chương vô mệnh dù đốt cháy vẫn còn dư âm. Mối hờn xưa nay chỉ có biết hỏi trời, vì đâu những người phong lưu tài sắc lại có cái án oan nghiệt như thế. Ba trăm năm lẽ nữa, kể từ nàng Tiểu Thanh đến nay, ba trăm năm lẽ sao ai sẽ khóc nàng Xuân Hương Hồ Phi Mai. Hai chữ tố như trong bài này tra tự điển Thiều Chửu: Tố là tơ trắng, nghĩa bóng là người có phẩm hạnh cao khiết, như là như cũ, như vậy, giống như. Nghĩa hai câu cuối là: không biết rồi đây ba trăm năm lẽ nữa, ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.

Đọc Tiểu Thanh ký (Độc Tiểu Thanh ký)

Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu,
Bên cửa viếng nàng một áng thư.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương vô mệnh cháy còn dư.
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách luỵ sầu.
Ba trăm năm nữa trong thiên hạ,
Còn Nàng ai khóc một niềm đau.

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu.
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bách tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp tố như?

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ
Chú thích:
Hoa uyển, có bản chép mai uyển theo thơ Tốn Phong trước nhà Xuân Hương có trồng nhiều mai trắng. Tốn Phong còn gọi nhà nàng là Mai đình. Tại Tây Hồ Hàng Châu trước nhà Tiểu Thanh cũng có rừng mai rộng bát ngát, thi sĩ Lâm Bô đời Tống vào rừng mai thưởng hoa đi lạc không biết đường về.

Bài Độc Tiểu Thanh ký trong các văn bản đều đặt cuối Thanh Hiên thi tập thời điểm sáng tác năm 1804, không ai hiểu làm sao, cụ Đào Duy Anh có đem qua Bắc hành tạp lục, nhưng Nguyễn Du khi đi sứ không ghé đến Hàng Châu. Nếu Nguyễn Du viết năm 1799 trong thời gian lưu lạc Trung Quốc thì bài này phải nằm kế 5 bài thơ Vịnh miếu Nhạc Phi, Tần Cối, Vương Thị. Cách cắt nghĩa của tôi duy nhất đáp ứng được thời điểm sáng tác. Ý nghĩa hai chữ tố như, tên tự hay bút hiệu thường lấy từ một điển tích, hay có ý nghĩa, tố như không có nghĩa nào khác và cũng không điển tích. Tôi cắt nghĩa và tìm ra mối liên hệ bài này với bài Giã từ Tổng Cóc (khóc Tổng Cóc) và bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn của Hồ Xuân Hương viết năm 1805.

III.2.

Sau khi nhận được bài thơ Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du. Hồ Xuân Hương dứt khoát dứt tình với Tổng Cóc. Bài thơ làm nàng thức tỉnh, nàng không thể nào tủi buồn, uất hận vì phận làm lẽ mà chết như nàng Tiểu Thanh. Không thể kéo dài cuộc sống: “Cầm bằng làm mướn, mướn không công. Chịu đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” vì Tổng Cóc làm tình như chuộc vọc: “Tiếc dĩa hồng ngâm cho chuộc vọc, Một tháng đôi lần có cũng không”. Chàng Cóc ơi, Chàng Cóc ơi, thiếp bén duyên với chàng thế là đủ rồi. Thiếp xin dứt tình với chàng từ đây như nòng nọc đứt đuôi. Dù chàng có cho thiếp nghìn vàng, thiếp cũng như con cóc bị bôi vôi không bao giờ trở lại với chàng. Cóc hay vào nhà trốn vào xó bếp hay gầm giường, đuổi đi, hay bắt bỏ ra xa cũng quay đầu trở lại, chỉ có bôi vôi vào đầu là đi biệt luôn không dám trở lại nữa.

Giã từ Tổng Cóc

Chàng Cóc ơi! Chàng cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng chỉ thế thôi,
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé!
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Hồ Xuân Hương, trở về Cổ Nguyệt đường, dù mang thai 6 tháng, sợ dư luận dị nghị, nàng ra phố Nam, mở tiệm bán sách, bút giấy mực, cạnh trường ông nghè Phạm Quý Thích gần đền Lý Quốc Sư. Mượn tiền Phạm Đình Hổ và bè bạn, Xuân Hương đã mở quán sách này. Tốn Phong đến thăm Xuân Hương sau hai lần hỏng thi khoa 1806 và 1813. Tốn Phong đến gặp Xuân Hương tại hiệu sách, sau khi nàng đã sinh con: “Mai lạnh vẫn thường than nỗi khổ, Chốn dời Mai mới nở thêm cành” (bài 15) Tiếc thay đứa con gái mất sớm, nàng không nuôi được. Năm ấy nàng 35 tuổi, sắc đẹp mặn mà làm tốn phong ca tụng tít trời xanh. Quán sách nàng là nơi các học trò ông nghè Phạm Quý Thích lui tới, để ngắm bà chị.

Trong đám học trò thường đến hiệu sách của nàng có cậu bé lên tám bị mắng là: Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa, có lẽ là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu về sau sẽ cùng Cao Bá Quát nổi tiếng: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán.

III.3.

Xuân Hương trở lại Cổ Nguyệt đường bên Hồ Tây, Nguyễn Du về quê một tháng, sau đó được lệnh vào Phú Xuân thăng Đông Các học sĩ hàm ngũ phẩm, tước Du Đức Hầu, chức vụ dâng sách cho vua đọc mỗi ngày, và soạn thảo chiếu biểu cho vua Gia Long.

Hồ Xuân Hương viết bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết: “Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu” (Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư). Xuân Hương trả lời: “Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa”. Em đã trở về, em không chết như nàng Tiểu Thanh đâu? Vườn cảnh có tay em chăm sóc đã trở lại như xưa. Người đồng châu, cùng quê Nghệ Tĩnh với em biết bao giờ trở lại. Nhật Tân đê lở, như duyên em dù lỡ làng cũng còn lối vào. Chùa Trấn Quốc rêu phong vẫn còn lưu lại bài thơ em viết ngày nào đề thơ cùng chàng. Nơi vực Trâu vàng trăng lặng bóng. Kìa non Phượng đất khói tuôn mờ những kỷ niệm đôi ta; Hồ kia thăm thẳm sâu bao nhiêu cũng không bằng lòng em nhớ chàng.

Chơi Tây Hồ nhớ bạn

Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,
Người đồng châu trước biết bao giờ.
Nhật Tân đê lỡ nhưng còn lối,
Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ,
Nọ vực Trâu vàng trăng lặng bóng,
Kìa non Phương đất khói tuôn mờ.
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy,
So dạ hoài nhân dễ chưa vừa.
Chú thích:
Vực Trâu vàng: tích Sư Minh Không quốc sư Triều Lý xin đồng nhà Tống về đúc chuông, tiếng chuông ngân xa, con trâu vàng trong cung nhà Tống ngỡ tiếng mẹ kêu, chạy sang Hồ Tây và biến mất trong khu vực này. Phủ Tây Hồ có đền thờ Trâu Vàng và đền bà Chúa Liễu Hạnh.
Non Phượng đất: hay mõ phượng, gò đất nhô ra ở Hồ Tây, nay thuộc khu vực Trường Bưởi, Chu Văn An.
Nguyễn Du cưới và vợ họ Võ sanh một con, để cai quản gia trang Tiên Điền, và có ba vợ thứ ba theo hầu bên cạnh nên sanh luôn một chục đứa con., nuôi mệt nhỉ.

IV. Hồ Xuân Hương gặp Nguyễn Du trên đường đi sứ năm 1813
IV.1.

Tháng 2 năm Quí Dậu 1813 Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Học Sĩ tước Du Đức Hầu, được chọn làm Chánh Sứ đi tuế cống triều nhà Thanh.Thiêm sự Bộ Lại Trần Văn Đại, Thiêm sự Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong làm Phó Sứ. Cống phẩm gồm: 200 lạng vàng, 1000 lạng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 cây, hai bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế; Sứ đoàn gồm 27 người, đi đến mỗi địa phương đều có bàn hương án và quan quân hộ tống. Đoàn đi từ Phú Xuân đến Vị Hoàng bằng thuyền và từ đó đi đường bộ. Theo gia phả con đầu là Nguyễn Tứ, 12 tuổi, có theo cha đi sứ.

Tin này ra đến Thăng Long, Hồ Xuân Hương đã gửi đến Nguyễn Du bài thơ Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân). Bài thơ này là một chứng cớ rõ ràng, không thể chối cải, nhưng thoạt đầu chẳng mấy ai tin. Ngay cả Xuân Diệu đọc bao nhiêu lần cứ viết: Xuân Hương phục người có tài hơn mình. Chẳng ai tin việc này, vì là thật nó kéo theo sự sụp đổ của một Hồ Xuân Hương dâm tục cả thế kỷ đã bàn tán và viết về nàng. Toàn bộ sách giáo khoa viết về Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du phải viết lại.

Chàng đi sứ hoàng hoa, xa quê hương, nơi đất khách ngàn dậm lòng em muôn nghìn nỗi nhớ nhung. Mượn ai tới đó để gửi thơ cho chàng, nói rõ tấm lòng em. Chữ tình đôi ta ba năm trọn vẹn (1790-1793), nhưng rồi tình như mộng như bài thơ Ký mộng chàng đã gửi cho em, tan mộng rồi chẳng còn thấy nhau. Em trộm mừng cho chàng từ ngày ra làm quan, xe ngựa đưa đón, có nhiều thê thiếp, nhiều mối duyên tình. Riêng phận em làm gái, phấn son càng tủi cho mình phận long đong. Biết chàng có bịn rịn vấn vương đến mối tình em, nơi Cổ Nguyệt đường năm canh em vẫn một mình phòng không thao thức.

Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu (Hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân)

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu hương ký.
Chú thích:
Sương siu theo GS Hoàng Xuân Hãn có nghĩa là bịn rịn. Sách Thiên Nam ngữ lục: Quốc Tuấn nhớ lời cha truyền, gặp cơn khổng tổng lòng bèn sương siu. Tuồng Thù Thế Tân Thanh: Sương siu vì một chữ tình. Ông Trần Thanh Mại âm là: Sương đeo mái, Hồ Tuấn Niêm chữa đeo ra treo hai cách đều vô nghĩa.

IV.2.

Sứ đoàn từ Phú Xuân đến Thạch Đình sông Hoàng Giang, một cuộc tiếp rước long trọng của quan Tổng Trấn Bắc Thành bấy giờ là Nguyễn Huỳnh Đức và quan Tổng Hiệp Trấn (Phó) Lê Chất. Xe ngựa, lính hầu đi chật đường đưa từ Thạch Đình về dinh Tuyên Vũ. Qua mỗi địa phương đều có bàn hương án quan huyện, trấn tiếp rước. Thời gian Nguyễn Du đi sứ là 12 tháng rưỡi. Từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, các quan địa phương Trung Quốc chu cấp nơi ăn ở, tiếp rước. Qua cửa Nam Quang đi Quế Lâm đến Võ Xương rồi đến Bắc Kinh. Tôi đã đi lại cuộc hành trình này năm 2009 để dịch toàn bộ các thơ Nguyễn Du trên đường đi sứ, so sánh thời nay và những điều Nguyễn Du mô tả;

Hồ Xuân Hương đã đến sông Hoàng Giang chờ đợi từ nhiều ngày đầu tháng 4 năm Quý Dậu, gặp lại Nguyễn Du sau hai mươi năm từ biệt cũng bến sông này, nơi Thạch Đình từ biệt năm xưa. Nhưng than ôi, Hồ Xuân Hương chỉ trông thấy Nguyễn Du từ xa, nào dám lại cầm tay tâm tình, vì chàng đường đường là một vị Chánh Sứ, quan trên trông xuống, người ta dòm vào, muôn cặp mắt phủ, huyện, lính lệ. Hồ Xuân Hương về nhà viết bài Hoàng giang ngộ hữu hỉ phú (Mừng gặp bạn trên sông Hoàng Giang): Từ độ em biết yêu lần đầu, như người con gái tuổi xuân vừa biết mùa xuân đầu tiên, mỗi khắc thời gian như vàng em lấy làm quí trọng. Đã hò hẹn nhau, lòng em nhớ cả kiếp sống mình. Tình đôi ta rất nặng em không quên dù hoá kiếp cả trăm thân. Dòng Tô Lịch chưa cạn, đôi ta vẫn còn duyên nợ. Sông Vị Hoàng còn đầy những giọt nước mắt ái ân em tiễn đưa chàng ngày nào, nhưng hôm nay chàng là quan Chánh Sứ, bao cặp mắt từ quan đến dân trông vào, em dù nồng ấm hay phai nhạt nào có dám thổ lộ. Nhưng lòng son em vẫn thương chàng, mười phân vẹn mười.

Mừng gặp bạn ở sông Hoàng.

Nhà xuân từ được bén hơi xuân,
Nửa khắc vàng xem trọng mấy cân.
Trót hẹn nhớ cho đành một kiếp,
Nặng nề quên cả đến trăm thân.
Cạn dòng Tô Thuỷ còn duyên nợ,
Đầy giọt Hoàng giang những ái ân.
Nồng nhạt mặc dù đâu nhẽ dám,
Tất son này vẫn thắm mười phân.

Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu hương ký.
IV.3.

Các bài thơ này cất kỷ trong Lưu hương ký, Nguyễn Du nào đọc được. Năm đó nàng 41 tuổi, đã trải qua những mối tình:sau mối tình với Nguyễn Du, Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, Mai Sơn Phủ rồi Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, Quan Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh, quan Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, và giờ đây người cuối cùng Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần Phúc Hiển sẽ được thăng lên chức Tham Hiệp Trấn Yên Quảng. Các mối tình này được người bạn Phạm Đình Hổ chứng kiến, và Tốn Phong Nham Giác Phu họ Phan Huy viết tựa cho Lưu hương ký bài Hoài cựu là bài thơ tự than trách phận mình: Chữ tình ngang ngửa biết bao nhiêu, tình em đã trái ngang cùng chàng.Một chút duyên xưa lắm điều dang dỡ. Phận mình như bèo lạc hoa trôi, không trẻ lại như ngày xưa. Mối tình trăng hoa thêm tủi cái già đã đến. Vì ta tài tình mà mang nợ nên phải trả. Nhìn phong cảnh nào vui đâu lòng đã gửi nhiều thơ vịnh đưa đón gặp nhau mới biết tỏ tường bàn tay đấng tạo hoá. Đời mình như cánh hoa trôi trên dòng, mới thắm thía khi tin nước thuỷ triều đưa đẩy ngược dòng.

Hoài cựu (Nhớ bạn cũ)

Chữ tình ngang ngửa biết bao nhiêu,
Một chút duyên xưa dỡ lắm điều.
Bèo lạc không kinh còn trẻ lại.
Trăm hoa thêm tủi cái gì theo.
Tài tình nợ ấy vay nên trả,
Phong cảnh vui đâu đã gửi nhiều.
Đưa đón biết tường tay đại tạo,
Cánh hoa trên nước thắm tin triều.

Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Lưu hương ký.
Biết rằng mối tình ngang trái, không còn gì nữa. Hồ Xuân Hương dứt khoát để yêu Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần Phúc Hiển sau được thăng làm Tham Hiệp Trấn Yên Quảng. Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi; Xuân Hương góp thơ thành tập cuối cùng Hương đình cổ nguyệt thi tập. Tập này bị phân tán thành nhiều mảnh. Tôi sẽ sắp xếp lại toàn bộ tập thơ vịnh cảnh này.

Một biến cố làm chấn động Tao đàn thời bấy giờ. Vì một bài thơ Nguyễn Văn Thuyên bị khép tội mưu phản, án chém. Cha nguyên Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, người nổi tiếng với bài Văn tế trận vong chiến sĩ, phải tự tử năm 1816. Binh bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường, một tay cự phách trong làng văn thơ, người từng đánh chết Ngô Thời Nhiệm, đánh Phan Huy Ích trước Văn Miếu, bị bắt tội ẩn lậu ao đầm tội phải thắt cổ. Tiến Sĩ Vũ Trinh, anh rễ Nguyễn Du thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên bị đày vào Quảng Nam 12 năm. Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, bạn thi ca của Hồ Xuân Hương, thi tướng tao đàn Cổ Nguyệt đường và cũng là bạn của Thuyên chết bất ngờ năm 1818, có lẽ tự tử.Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương, con người bạn Nguyễn Văn Thành đã chết trận, được ông xem như con nuôi che chỡ, bị bắt tội tham nhũng 700 quan tiền hối lộ, vì bắt buộc dân không được bỏ nghề đồng ruộng. Các vụ án xảy ra trên cùng một địa bàn cùng thời điểm có quan hệ chồng chéo với nhau, khiến cho mọi người sợ hải, cất dấu thơ văn. Đó là lý do thơ Hồ Xuân Hương bị cất dấu, gần như biến mất, nhưng danh tiếng nàng, một nhà thơ trữ tình, lãng mạn đã làm các bậc mày râu làm thơ gán ghép để thoả lòng dâm dục.

Tam Nguyên Vị Xuyên, Trần Bích San bốn mươi hai năm sau, trong Xuân Đường đàm thoại, làm hai bài phú viếng Hồ Xuân Hương thay cho Nguyễn Du và Phạm Quý Thích, đã tiết lộ tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du có thể viết nên thiên tình sử.

Sau khi chồng bị tử hình, nàng có mặt trong buổi hành hình khóc cười điên dại: Giọt sương dưới chiếu chau mày khóc, Giọt máu trên tay mỉm miệng cười. Hồ Xuân Hương đi tu núi Yên Tử, rồi trở về Cổ Nguyệt đường vài năm sau cũng mất, bên cạnh nàng có gia đình Tử Minh: không ruột nhưng mà thương quá ruột, có hai người con trai, và học trò nàng có cô Nguyễn Thị Hinh sau trở thành Bà huyện Thanh Quan. Mộ Hồ Xuân Hương nằm bên hồ sen trước chùa Kim Liên, Năm 1842 Tùng Thiện Vương theo anh là Vua Thiệu Trị ra Bắc, đến cúng dường chùa Kim Liên, dặn cô hầu gái đi hái sen Chớ trèo qua mộ Xuân Hương, Suối vàng còn hận tơ duyên lỡ làng. Mực nước Hồ Tây đầu thế kỷ 20 vì đắp đê nên đã dâng cao một thước, ngôi mộ nàng nằm trong lòng nước.

Tôi đến đến đây, trước chùa Kim Liên, ngồi trong mưa, nghe tiếng sóng Hồ Tây thét gọi: những người yêu văn chương Việt nam ở đâu, mà để nàng còn nằm trong lòng nước lạnh. Tôi mơ ước một ngày nào đó ngôi Cổ Nguyệt đường sẽ được dựng lại bên cạnh chùa Kim Liên, cho khách du lịch văn hoá đến thăm.

Còn Nguyễn Du, tình yêu với nàng như tơ trong cuống sen vấn vương hoài không đứt. Trước khi nhắm mắt năm 1820 vì trận dịch (cả nước hàng trăm ngàn người chết) nếu Nguyễn Du có ngâm câu: “Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Không phải Nguyễn Du muốn ai khóc mình đâu, mà Nguyễn Du tiếc thương người con gái tên Hồ Phi Mai, hồng nhan như bạc mệnh, mong manh như một cành mai trước gió xuân.


TS Phạm Trọng Chánh
Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris V; Sorbonne.
tác giả: Hồ Xuân Hương, nàng là ai? Khuê Văn Paris xb 2000
Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê văn Paris xb.2011
tửu tận tình do tại
63.17
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Lỡm Học Trò

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa

15.00