Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 08/03/2025 10:24
Kim phong thổi lọt rèm lương,
Sẽ ngờ bằng bẵng gió hương đưa mùi.
Máy thiên cơ khéo thoảng rồi,
Nhiệm mầu đắp đổi thương vui sự thường.
Trách ta sao chẳng hay lường,
Nghĩ mình những tưởng rằng chăng thực thì.
Ai ngờ lòng thế giang hoa?
Thôi thôi đã phải lầm sa chước người.
Ví hay ra sự biến dời,
Dẫu trăm thề nặng mở nhời chẳng tin.
Vì chưng trước đã khấn nguyền,
Cho nên mới dám cần quyền bấy lâu.
Nào đi đâu biết ra đâu,
Ngay lòng đã trót nghe nhau sẽ chừng.
Nghĩ rằng người khác đưng hằng,
Chẳng ngờ còn thói gió giăng dông dài.
Cứ là dạ chẳng như nhời,
Luống công vả lại thế cười dở dang!
Chửa tường rằng ngãi hơn vàng,
Ai còn mấy chước nói quàng ấy ru?
Giời cao muôn trượng thẳm xa,
Quảng Hàn nỡ để Hằng Nga lạnh lùng!
Tưởng nguồn cơn rất trạnh lòng,
Trách duyên dám trách cửu trùng thắm phai.
Hổ tôi kém sắc phạp tài,
Làm thương muôn đội lượng giời chở che!
Xét mình bồ liễu li ti.
Dám rằng cù mộc, dám khoe hảo cầu.
Phận thường bé nhỏ nữ lưu,
Muôn trông xét biết ái ưu ghi lòng.
Sách vàng rờ rỡ ban phong,
Những lo xứng chỉ, lấy trung báo đền.
Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên,
Gót đầu toàn đội ơn trên tài bồi.
Non nhân bể đức bằng giời,
Muôn phần báo đáp chớ vời một ly.
Lạm xem trên cả nhân nghì,
Vậy nên ai nấy bấc chì mỉa mai.
Tay đâu bưng được miệng người,
Nắng mưa cũng tiếng bẻ bai lọ là?
Thấy gương nhạt nguyệt thắm hoa,
Thừa cơ dễ khiến gièm pha nhiều điều.
Nghĩ rằng đức Thuấn, nhân Nghiêu,
Hán Đường dù có đăm xiêu tò vò,
Chắc rằng sông núi hẹn hò,
Hay đâu bể ái chuyết đồ cùng ao.
Đã cam há dám rằng sao,
Canh chầy vò võ lầu cao nguyệt tà.
Tưởng khi cầm sắt khúc hoà,
Trăm năm giao tất một nhà trúc mai.
Bây giờ tin diễn vãng lai,
Cửa ngăn dì gió, nguyệt kề then sương.
Tưởng khi đầm ấm thiên hương,
Ngỡ bền một nghĩa để gương muôn đời.
Bây giờ gần biến xa dời,
Một lòng khôn tỏ nhiều nhời nỉ năn.
Tưởng khi lạm sánh nhà vàng,
Nghe cân dễ rước được trường một xuân.
Bây giờ hiểm nhỡ ải Tần,
Một bề trực phận chín lần khôn thâu.
Càng phen càng dở mối sầu,
Ngu trung dễ thấu nhiệm mầu thiên cơ!
Cớ chi nên nỗi sinh thơ,
Bâng khuâng chí ước,ngẩn ngơ dạ nguyền.
Ví còn đoá quế non Yên,
Làm chi nên nỗi nhiều phen thế này?
Nhịn hận nọ dạ khôn khuây,
Buồn xem vụ nữ nước mây thêm ngừng,
Nhiều phen sấm chớp vang lừng,
Bồ hòn đắng ngắt thì gừng lại cay.
Nào khi ngự giá bình tây,
Lao cần dám nghĩ gió lay sương hàn.
Dầy trông ngồi bính ngồi kiền,
Tấc gang cách nhỡ mấy ngàn non tây,
Bụng lăm vả tiếng một ngày,
Nỡ cho kẻ bé kết bài dao ca.
Quản bao phận tiên nhàn hoa,
Nỡ trong thể thống quốc gia nhường nào!
Dám tin tài quyết sáng cao,
Quyền cường hết để nấy trao kẻ ngoài.
Vững phù vận nước lâu dài,
Dẫu sao thì cũng là người nhà vương.
Huống đà lạm dự tao khang,
Trì gia cũng lấy tam cương làm đầu.
Ngập ngừng kể bõ xiết đâu,
Bút hoa mẫu chữ lệ châu hai hàng.
Cả lòng gửi trước nhà vàng,
Cậy gương nhật nguyệt rõ ràng chiếu lâm.
Nghìn năm khắc cốt minh tâm,
Kẻo mà lỗi chữ tình thâm thế cười.
Nền vương sáng rỡ giữa giời,
May nhờ hồng phúc muôn đời.