Bình luận nhanh 0

Bạn đang bình luận với tư cách khách viếng thăm. Để có thể theo dõi và quản lý bình luận của mình, hãy đăng ký tài khoản / đăng nhập trước.

Dầu chẳng chăn uyên cũng gối ương,
Một ngày lạ nghĩa đạo cương thường.
Nào ngờ Bạch Thị duyên mây nước,
Chỉn thực quan nhân dạ sắt vàng.
Cửa tướng thiếu gì người yểu điệu,
Nhà lan còn nhớ nghĩa tao khang[1].
Ngẫm rằng quân tử lòng trung hậu,
Có đức rành thay có vẻ vang.


Tiêu đề chữ Hán: 玄莊嘆賞. Nghĩa: Huyền Trang khen ngợi.

Chú thích:
[1]
Tao khang: “Tao khang” 糟糠 còn đọc là “tào khang” chỉ người vợ đã gắn bó với mình từ thuở hàn vi, nghèo khó, từng ăn bã ăn cám với mình. “Tao” là bã rượu, “khang” là cám gạo, là những thứ mà người nghèo khổ thường phải ăn. Theo Hán thư, Tống Hoằng truyện: vua Hán Quang Vũ (Trung Quốc) có ý muốn gả người chị goá chồng là Hồ Dương công chúa cho quan đại phu Tống Hoằng 宋弘, nên hỏi “Ngạn ngôn: Phú dịch thê, quý dịch giao, nhân tình hồ?” 諺言貴易交,富易妻,人情乎? (Ngạn ngữ có nói: Giàu thì đổi vợ, sang thì đổi bạn, có đúng không?) Tống Hoằng đã có vợ, đáp “Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường” 臣聞貧賤之知不可忘,糟糠之妻不可下堂 (Thần nghe: Bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ để ở nhà dưới), ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc người vợ cũ. Vua biết ý vậy, liền thôi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]