Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn

Một số bài cùng tác giả

Đăng bởi tôn tiền tử vào 12/08/2019 14:05

Trời cao muôn dặm thẳm xa,
Quảng Hàn nỡ để Hằng Nga lạnh lùng.
Tưởng nguồn cơn khéo chạnh lòng,
Trách duyên dám trách cửu trùng thắm phai.
Vả tôi kém sắc phạp tài,
Nhằm thương muôn đội lượng trời chở che.
Xét mình bồ liễu le te,
Dám rằng cù mộc dám khoe hảo cầu.
Phận thường mọn mảy nữ lưu,
Muôn mong xét biết ái ưu ghi lòng.
Sách vàng rờ rỡ đề phong,
Những mong xứng chỉ chút công báo đền.
Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên,
Gót đầu toàn đội ơn trên tài bồi.
Non ân bể đức bằng trời,
Muôn phần báo đáp chưa vời một ly.
Trộm xem trên cả nhân nghì,
Vậy nên áy náy bấc chì mỉa mai.
Tay đâu bưng được miệng ai,
Nắng mưa cũng tiếng mỉa mai lọ là.
Thấy chiều thưa nguyệt phai hoa,
Thừa cơ dễ khiến gièm pha nhiều điều.
Nghĩ rằng đức Thuấn nhân Nghiêu,
Chở che dù có đăm chiêu dày vò.
Chắc rằng sông núi hẹn hò,
Hay đâu bể ái chút dò cũng hao.
Đạo màu há dám rằng sao,
Canh chầy vò võ lầu cao nguyệt tà.
Tưởng khi cầm sắt khúc hoà,
Trăm năm cù mộc một nhà trúc mai.
Bây giờ tin diễn vãng lai,
Cửa ngăn dây gió nguyệt cài then sương.
Tưởng khi đầm ấm thiên hương,
Ngửa trông một nghĩa để gương muôn đời.
Bây giờ gần bén xa rời,
Một lòng khôn thở nhiều lời nể nang.
Tưởng khi lạm sánh nhà vàng,
Nghìn năm để trách một trường áng xuân.
Bây giờ cách diễn ải Tần,
Một bề trực đức chín lần khôn thâu.
Càng phen càng bối rối sầu,
Ngu trung dễ thấu nhiệm mầu thiên cơ.
Cớ chi nên nỗi sinh sơ,
Bâng khuâng lòng ước ngẩn ngơ dạ phiền.
Vì con chồi quế non Yên,
Thì chi đến nỗi nhiều phen thế này.
Nhởn nhơ song dạ khôn khuây,
Buồn xem bể nữ nước mây thêm ngừng.
Nhiều phen sấm chớp vang lừng,
Bồ hòn đã đắng thì gừng lại cay.
Nào khi giá ngự bình Tây,
Cần lao dám ngại nước mây sương hàn.
Dày êm gối biếng ngôi Càn,
Tấc gang nỡ để mấy ngàn riêng tây.
Vụng lầm vả tiếng một ngày,
Nỡ cho kẻ mọn sánh bầy rao ca.
Quản bao phận tiện dã hoa,
Nữa trong thể thống quốc gia dường nào.
Dám xin tài quyết lượng cao,
Quyền cương nỡ để tay trao kẻ ngoài.
Vững phù mạnh nước lâu dài,
Dẫu sao thì cũng là người nhà vương.
Trót đà lạm dự tào khang,
Trị bình cũng lấy tam cang làm đầu.
Ngập ngừng kể lấy sự đầu,
Bút hoa mấy chữ lệ châu đôi hàng.
Cả lòng xin trước nhà vàng,
Cây gương nhật nguyệt rỡ ràng tiêu lâm.
Nghìn năm khắc cốt minh tâm,
Kẻ nông nỗi chữ tình thâm thế cười.
Nền vương sáng rỡ giữa trời,
May nhờ hồng phúc muôn đời lâu xa.


Nguyên vương phi được chúa yêu quý, sợ có ngày bị thất sủng nên sinh lòng đố kỵ với đám cung tần. Năm Cảnh Hưng thứ 20 (1760) vì ghen với người sủng cơ là Thị Mỹ, bà cầm hộp trầu mà ném, chẳng may ném nhằm chúa. Chúa giận truyền đuổi ra khỏi cung, bắt giam vào bản dinh ngoài thành Thăng Long. Bà hối hận soạn hai bài thơ này dâng lên, chúa cảm động cho xe loan ra rước trở vào cung.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]