Ai xui rã chút duyên kim cải[1],
Ai khiến rời chút ngãi tao khang[2].
Đã đành trâm gãy gương tan,
Kẻ ở phiên bang[3],
Người về Hán địa[4].
Tính không tròn trịa,
Nên mới rã rời.
Nằm đêm anh những vái trời,
Cho em kiếm nơi quyền quý nối lời non sông.


Chú thích:
[1]
Cây kim và hạt cải, chỉ duyên vợ chồng khắng khít như nam châm hút kim, hổ phách hút hạt cải.
[2]
Tao khang: “Tao khang” 糟糠 còn đọc là “tào khang” chỉ người vợ đã gắn bó với mình từ thuở hàn vi, nghèo khó, từng ăn bã ăn cám với mình. “Tao” là bã rượu, “khang” là cám gạo, là những thứ mà người nghèo khổ thường phải ăn. Theo Hán thư, Tống Hoằng truyện: vua Hán Quang Vũ (Trung Quốc) có ý muốn gả người chị goá chồng là Hồ Dương công chúa cho quan đại phu Tống Hoằng 宋弘, nên hỏi “Ngạn ngôn: Phú dịch thê, quý dịch giao, nhân tình hồ?” 諺言貴易交,富易妻,人情乎? (Ngạn ngữ có nói: Giàu thì đổi vợ, sang thì đổi bạn, có đúng không?) Tống Hoằng đã có vợ, đáp “Thần văn: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường” 臣聞貧賤之知不可忘,糟糠之妻不可下堂 (Thần nghe: Bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ để ở nhà dưới), ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc người vợ cũ. Vua biết ý vậy, liền thôi.
[3]
Nơi ngoài biên ải.
[4]
Chỉ đất trung nguyên.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]