Nguyễn Đề 阮偍
Nước: Thơ đọc nhiều nhất- Đề Lưu Quan Trương đào viên kết nghĩa xứ - Quá Quỷ Môn quan - Tịch dương sơn hành tức cảnh - Lạng Sơn tức cảnh - Ký đồng hoài đệ Thanh Hiên Tố Như tử Thơ thích nhấtThơ mới nhất- Cung hoạ ngự chế tứ Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam chư quốc sứ thần thi - Thanh Quyết giang - Thứ Đông Sơn ngẫu ức Lan Khê ngư giả - Để Đoàn Thành ký tâm hữu Đoàn Hải Ông - Đoàn Thành tức cảnh Tác giả cùng thời kỳ- Ngô Nhân Tĩnh (42 bài) - Phạm Quý Thích (10 bài) - Nguyễn Gia Cát (3 bài) - Nguyễn Bá Xuyến (22 bài) - Lê Quang Định (9 bài) Dịch giả nhiều bài nhất- Phạm Trọng Chánh (17 bài) - Ngô Linh Ngọc (13 bài) - Lâm Giang (2 bài) - Nguyễn Đức Toàn (II) (2 bài) - Đào Phương Bình (1 bài) Nguyễn Đề 阮偍 (1761-1805), huý là Nễ, tự Nhất Quế, hiệu Quế Hiên 桂軒 (gia phả ghi là Quế Hiên công), sau đổi tên là Đề, tự Tiến Phủ, hiệu Tỉnh Kiên, biệt hiệu Văn thôn cư sĩ, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con thứ sáu của Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (1708-1755) và Trần Thị Tần (1740-1778), và là anh cùng mẹ với Nguyễn Du.
Nhờ cha làm quan lớn (tể tướng), nên những năm tháng thiếu thời, ông sống khá yên vui cùng các anh em trong một cơ ngơi bề thế ở phường Bích Câu, trong kinh thành Thăng Long. Khi quân Tây Sơn ra Bắc, ông lánh về quê mẹ ở Bắc Ninh. Sau nhờ người quen đề cử, ông được Tây Sơn mời ra giúp việc từ hàn, tiếp đến là Hàn lâm viện thị thư, hai lần đi sứ Trung Quốc. Khi Tây Sơn mất, vua Gia Long cho ông ra làm việc dưới quyền qua…
|