Thơ » Trung Quốc » Thanh » Thẩm Đức Tiềm
Đăng bởi tôn tiền tử vào 22/04/2019 22:39
千重沙磧萬重山,
三載燒荒未擬還。
流盡征夫眼中血,
誰人月下唱陽關。
Thiên trùng sa thích vạn trùng san,
Tam tải thiêu hoang vị nghĩ hoàn.
Lưu tận chinh phu nhãn trung huyết,
Thuỳ nhân nguyệt hạ xướng Dương Quan[1].
Nghìn trùng sa mạc nghìn trùng núi,
Ba năm đốt hoang chưa nghĩ về.
Kẻ chinh phu chảy hết máu mắt,
Dưới trăng ai lại còn hát khúc Dương Quan.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/04/2019 22:39
Nghìn trùng sa mạc núi muôn trùng
Chẳng nghĩ về ba năm đốt hoang
Máu mắt chinh phu đà chảy hết
Dương Quan ai hát dưới đêm trăng
Dương Quan được nhắc tới trong bài Đường thi Tống Nguyên nhị sứ An Tây 送元二使安西 nổi tiếng của Vương Duy 王維, đã được phổ thành cầm khúc Dương Quan tam điệp 陽關三疊, còn được gọi là Dương Quan khúc 陽關曲 hay Vị Thành khúc 渭城曲, nhưng đến đời Tống thì thất truyền. Đây là bài thơ tống biệt nên người đời cũng dùng chữ Dương Quan với ý nghĩa đưa tiễn nhau. Tô Thức bàn về Dương Quan tam điệp: “Dư tại Mật Châu, Văn Huân trưởng quan dĩ sự chí Mật, tự vân đắc cổ bản Dương Quan, mỗi cú giai tái xướng, nhi đệ nhất cú bất điệp, nãi tri cổ bản tam điệp cái như thử” 余在密州,文勛長官以事至密,自云得古本《陽關》,每句皆再唱,而第一句不疊,乃知古本三疊蓋如此 (Ta ở Mật Châu, Văn Huân trưởng quan có việc đến Mật Châu, bảo rằng có được bản Dương Quan cổ, mỗi câu đều hát lại, duy có câu đầu không lặp, thế mới biết bản cổ tam điệp là như vậy). Theo câu bàn đó của Tô Thức thì Dương Quan tứ điệp có lẽ ở đời Tống là hát lặp lại cả 4 câu trong bài thơ.
Thơ văn xưa cả của Trung Quốc và Việt Nam hay dùng chữ Dương Quan để nói về cảnh xa cách. Truyện Kiều: “Sông Tần một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan.”
Hình: Dương Quan ngày nay