鎮國歸僧(水遶叢林徹底澄)

水遶叢林徹底澄,
斜陽景裡見歸僧。
煙波一徑初回錫,
雲樹重樓正上燈。
沙界回頭生慧覺,
物花隨處晤真乘。
寒鐘聲送入禪院,
身在人天第幾層。

 

Trấn Quốc quy tăng (Thuỷ nhiễu tùng lâm triệt để trừng)

Thuỷ nhiễu tùng lâm triệt để trừng,
Tà dương cảnh lý kiến quy tăng.
Yên ba nhất kính sơ hồi tích,
Vân thụ trùng lâu chính thượng đăng.
Sa giới hồi đầu sinh tuệ giác,
Vật hoa tuỳ xứ ngộ chân thằng (thừa).
Hàn chung thanh tống nhập thiền viện,
Thân tại nhân thiên đệ kỷ tằng.

 

Dịch nghĩa

Nước bao quanh rừng trong tới tận đáy,
Trong cảnh chiều tà thấy vị sư già trở về.
Một lối đi giữa khói sóng đang chống gậy quay lại,
Lầu cao mây dựng vừa lúc lên đèn.
Thế giới sa bà quay đầu nhìn lại sinh tuệ giác,
Muôn vật khắp nơi giác ngộ đạo chân thừa.
Tiếng chuông lạnh lẽo vang đến thiền viện,
Thân đã ở tại cõi nhân thiên thứ mấy tầng.


Bài thơ này chép trong Hà Thành thi sao 河城詩抄 (ký hiệu VHb.319, do Trần Duy Vôn, hiệu Nhàn Vân Đình 閒雲亭 soạn trước năm 1975, chép các bài thơ viết về Hà Nội từ đời Trần đến đời Nguyễn hiện còn được giữ lại trong Hoàng việt thi tuyển, Truyền kỳ lục, Thăng Long cổ tích khảo...).

Chùa Trấn Quốc ( 21.048,105.837): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc
Hình: Chùa Trấn Quốc



[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh

Quanh rừng dòng nước xanh trong,
Chiều tà giữa cảnh thấy ông sư già.
Khói sóng một lối đi qua,
Lầu cao mây dựng cũng vừa thượng đăng.
Sa bà giác tuệ thêm tăng,
Khắp nơi cảnh vật nhận chân ngộ thiền.
Hàn chung văng vẳng cửa chiền,
Thân này đã giữa nhân thiên mấy tầng.


Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Nước quấn quanh chùa tới đáy trong
Cảnh chiều tà về thấy lão tăng
Khói sóng một đường vừa chống trượng
Mây dựng trùm lầu lúc đèn giăng
Sa bà chợt ngộ sinh tuệ giác
Muôn vật tuỳ nơi gặp chân Thiền
Chuông lạnh vẳng đưa vào thiền viện
Thân tại tầng nào trên cõi thiên


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời