Trung lập kiền khôn[1] giữa đế đô,
Mang danh Trấn Quốc[2] ở Tây Hồ.
Xuân thu thêm có mười phần lạ,
Hoa cỏ đành hay một thức phô.
Hây hẩy hương trời thơm nữa[3] xạ,
Làu làu đèn bụt rạng như tô,
Kìa ai đủng đỉnh làm chi đấy?
Một tiếng kình[4] khua một chữ mô[5].


Chùa Trấn Quốc ven hồ Tây, Hà Nội. Khi vua Thiệu Trị Bắc tuần (1842) thưởng một đồng tiền vàng hạng lớn và 200 quan tiền, lại cho đổi tên là chùa Trấn Bắc.


Chú thích:
[1]
Đứng giữa đất trời.
[2]
Chùa Trấn Quốc ( 21.048,105.837): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc
Hình: Chùa Trấn Quốc

[3]
Hơn.
[4]
Cái chày nện chuông làm thành hình con cá kình. Câu này có ý nói: Mỗi khi nghe một tiếng chuông thì thiện nam tín nữ lại niệm câu: “mô Phật”.
[5]
Na mô.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]