鎮寺遊僧

寂寞禪關第幾層,
優曇影裡有遊僧。
湖聲靜寂傳清磬,
竹徑逍遙擁瘦藤。
空色兩忘花底月,
圓明一點案前燈。
忘機何限安禪趣,
雲色波光證上乘。

 

Trấn tự du tăng

Tịch mịch thiền quan đệ kỷ tằng,
Ưu đàm ảnh lý hữu du tăng.
Hồ thanh tĩnh tịch truyền thanh khánh,
Trúc kính tiêu dao ủng sấu đằng.
Không sắc lưỡng vong hoa để nguyệt,
Viên minh nhất điểm án tiền đăng.
Vong cơ hà hạn an thiền thú,
Vân sắc ba quang chứng Thượng thằng (thừa).

 

Dịch nghĩa

Tĩnh mịch cửa thiền biết mấy tầng,
Dưới bóng ưu đàm thấy vị thiền sư.
Cảnh hồ lặng lẽ tiếng khánh vang truyền,
Lối trúc tiêu dao vin sợi mây gầy.
Dưới bóng trăng bên hoa quên hết cả sắc không,
Một ngọn đèn tròn sáng trước án.
Vong cơ đâu chỉ hạn chế ở yên thú vui thiền,
Màu mây sắc sóng chứng đạo Thượng thằng.


Chùa Trấn Quốc ( 21.048,105.837): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc
Hình: Chùa Trấn Quốc



[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh

Tịnh mịch cửa thiền biết mấy tầng,
Ưu đàm đó có thầy thiền tăng.
Tiếng hồ vắng lặng vang lừng khánh,
Lối trúc tiêu dao sợi móc giằng.
Dưới hoa quên hết sắc không chăng,
Trước án ngọn đèn tròn chấm sáng.
Ngộ thiền dâu chỉ vui thiền thú,
Sắc sóng màu mây chứng Thượng thằng.


tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Tịch mịch chùa thiêng cửa mấy tầng
Trong bóng ưu đàm có thiền tăng
Hồ trong tĩnh lặng truyền tiếng khánh
Ngõ trúc dạo chơi chạm mây giăng
Quên đôi không sắc hoa dưới nguyệt
Trước án điểm tròn sáng Phật đăng
Bỏ dục,sao ngừng vui thiền lặng
Màu mây cảnh sóng chứng Thượng thằng.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời