鎮國歸僧(極樂壺中寶剎層)

極樂壺中寶剎層,
遊方何處促歸僧。
衲衣拋卻塵緣去,
錫杖飛來淨境登。
沙界回觀輕一粟,
金經看定演三乘。
滔滔試問利名客,
誰會禪心一點燈。

 

Trấn Quốc quy tăng (Cực lạc hồ trung bảo sát tằng)

Cực lạc hồ trung bảo sát tằng,
Du phương hà xứ xúc quy tăng.
Nạp y phao khước trần duyên khứ,
Tích trượng phi lai tịnh cảnh đăng.
Sa giới hồi quan khinh nhất túc,
Kim kinh khan định diễn tam thằng (thừa).
Thao thao thí vấn lợi danh khách,
Thuỳ hội thiền tâm nhất điểm đăng.

 

Dịch nghĩa

Chùa cổ mấy tầng giữa chốn cực lạc hồ trung,
Vị sư ở đây đã đi du ngoạn nơi nào rồi.
Khoác áo cà sa dứt bỏ duyên trần tục,
Cưỡi gậy tích trượng bay lên miền tĩnh cảnh.
Quay đầu nhìn lại thế giới sa bà chỉ như một hạt thóc,
Kinh báu xem xong để diễn thuyết, giảng đạo tam thừa.
Thao thao thử hỏi khách lợi danh,
Ai hay lòng thiền sáng như một ngọn đèn.


Bài thơ này chép trong Thăng Long tam thập vịnh 昇龍三十詠 (ký hiệu A.1804, chưa rõ người soạn và niên đại).

Chùa Trấn Quốc ( 21.048,105.837): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc
Hình: Chùa Trấn Quốc




[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh

Giữa hồ cổ sái mấy tầng cao,
Tăng sư hành cước ở phương nao.
Cà sa áo khoác duyên trần dứt,
Tích trượng bay lên cảnh giới siêu.
Thế giới sa bà như hạt gạo,
Xem qua kinh báu giảng thao thao.
Lợi danh thử hỏi ai nào biết,
Lòng thiền một ngọn sáng như sao.


Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Chùa cao trong hồ vui biết bao
Giục về tăng dạo ở nơi nào
Cà sa, vứt bỏ duyên trần tục
Tích trượng bay lên cõi tịnh cao
Sa bà một hạt quay đầu thấy
Kinh báu tam thừa đọc giảng rao
Thao thao thử hỏi người danh lợi
Ai biết Thiền tâm, Pháp sáng sao.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời