鎮國歸僧

柱持古寺人衢老,
歷閱居諸若弗勝。
鎮武伏前丞法印,
文昌座下照心冰。
曲肱枕後全無夢,
抱膝吟中只有燈。
人問廢興都不答,
聖何豈敢曰愚僧。

 

Trấn Quốc quy tăng

Trụ trì cổ tự nhân cù lão,
Lịch duyệt cư chư nhược phất thăng.
Trấn Vũ phục tiền thừa pháp ấn,
Văn Xương toà hạ chiếu tâm băng.
Khúc quăng chẩm hậu toàn vô mộng,
Bão tất ngâm trung chỉ hữu đăng.
Nhân vấn phế hưng đô bất đáp,
Thánh hà khởi cảm viết ngu tăng.

 

Dịch nghĩa

Nhà sư già trụ trì ngôi chùa cổ bên đường,
Không thể tính được là đã bao lâu.
Quán Trấn Vũ nằm phía trước thế giữ ấn báu,
Bên dưới có toà Văn Xương đế quân soi tỏ tấm lòng băng.
Nằm xuống gấp tay gối đầu, không còn vướng mộng,
Chỉ còn một mình với ngọn đèn, ôm gối mà ngâm thơ.
Người đời hỏi chuyện thịnh, suy ta đều chẳng muốn đáp lại,
Bậc thánh nhân thì đâu dám, chỉ dám nhận là kẻ tu hành ngu dốt thôi.


Bài thơ này chép trong Tây Hồ thắng tích của Lý Văn Phức, nằm trong Hiếu cổ đường thi tập 孝古堂詩集 (VHv.106).

Chùa Trấn Quốc ( 21.048,105.837): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc
Hình: Chùa Trấn Quốc




[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh

Bên đường chùa cổ sư già,
Tu trì chẳng tính được là bao lâu.
Quán Trấn Vũ một toà ấn báu,
Ngôi Văn Xương soi thấu lòng băng.
Gấp tay gối chẳng mộng nhăng,
Một mình một ngọn cô đăng ngâm sầu.
Người hỏi thịnh suy đều chẳng đáp,
Chỉ đành làm dốt nát tu hành.


tửu tận tình do tại
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Chùa cổ trên đường một lão tăng
Trụ trì bao năm có biết chăng
Trước chùa,Trấn Vũ trừ ma quái
Dưới chòm Văn Xương rọi tâm băng
Cong tay sau gối không mộng mị
Khoanh chân lúc ngâm chỉ Phật đăng
Người hỏi phế hưng đều không đáp
Thánh hiền sao dám nhận ngu tăng.


15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Bên đường chùa cổ một sư già,
Bao thuở trụ trì chẳng tính ra.
Trấn Vũ một toà nằm ấn báu,
Văn Xương soi tỏ lòng vì tha.
Gấp tay đầu gối không vương mộng,
Một gối với đèn mình vịnh thơ.
Đời hỏi thịnh suy đều chẳng đáp,
Thánh hiền sao dám nhận sư ngu.


15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời