Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Tạo ngày 12/09/2007 15:58 bởi
Vanachi Vũ Phạm Hàm 武范邯 (1864-1906) là một người thông minh xuất chúng, đỗ Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi), lịch sử Việt Nam chỉ có ông và Lê Quý Đôn (triều Lê) là đã làm được điều đó.
Vũ Phạm Hàm sinh năm Giáp Tý (1864), quê ở làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là tỉnh Hà Tây) tự Mộng Hải, Mộng Hồ, hiệu Thư Trì.
Năm 21 tuổi, ông đỗ đầu kì thi Hương (Giải nguyên) khoa thi Giáp Thân đời vua Kiến Phúc (1884). Đến khoa thi Hội năm Nhâm Thìn, Thành Thái thứ tư (1892) ông đỗ thủ khoa (Hội nguyên). Do vậy tờ Đồng văn nhật báo đã đăng: Vũ quân kỳ khôi tinh giáng thế, nghĩa là ông Vũ phải chăng là sao khôi giáng thế. Dự thi Đình cùng năm đó, ông lại đỗ thủ khoa (Đình nguyên), giành học vị Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (tức Thám hoa) nên thường được gọi là Tam nguyên Thám hoa hay Thám Hàm. Khoa này dự vào hàng Tam khôi (Đệ nhất giáp) không có Trạng nguyên, Bảng nhãn, chỉ có Thám hoa. Cũng xin nhắc lại là từ triều vua Gia Long nhà Nguyễn đã không lấy đỗ Trạng nguyên tại kỳ thi Đình. Khoa thi này lấy đỗ 9 tiến sĩ, 7 phó bảng, trong đó có Nguyễn Thượng Hiền đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và Chu Mạnh Trinh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.
Vũ Phạm Hàm đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên lúc 29 tuổi. Triều nhà Nguyễn có ba Tam nguyên: Vị Xuyên Trần Bích San, Yên Đổ Nguyễn Khuyến và ông. Nhưng Vị Xuyên và Yên Đổ tiên sinh đỗ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp). Toàn thể lịch sử Việt Nam chỉ có Vũ Phạm Hàm và Lê Quý Đôn (triều Lê) là đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi đó. Ông cũng là vị Tam khôi cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Ông làm Giáo thụ rồi thăng Đốc học Hà Nội sung Đồng văn quán (báo Đồng Văn), lên đến Án sát các tỉnh Hưng Hoá, Hải Dương, sau đó cáo quan về trí sĩ ở quê và dạy học cho đến lúc mất.
Khi ông qua đời (1906), lăng mộ ông được đặt tại làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây.
Tại Hà Nội, tên của ông đã từng được đặt cho một con phố trong giai đoạn 1945-1964 (thời Pháp thuộc gọi là Voie 104), thuộc Khu 1, gần Ngũ Xã, nay là phố Lạc Chính, Hà Nội. Tại Sài Gòn, từ thời Pháp thuộc đến năm 1975, tên của ông cũng được đặt cho một con phố nằm dọc Kênh Ngang số 3 nối từ Kênh Đôi sang Rạch Lò Gốm (thuộc quận 6), nay là phố Bình Đức, Tp. Hồ Chí Minh.
Bia tiến sỹ khắc tên ông được đặt tại Văn Thánh - Quốc Tử Giám, Huế.
Tác phẩm có:
- Cầu Đơ tỉnh nhân định phong tục tổng sách (A.718)
- Hưng Hoá tỉnh phú (A.471, A.1055, A.1054, VHv.1392)
- Kinh sử thi tập (A.133/1-2)
- Mộng Hồ thi tuyển (VHv.1410)
- Tập Đường thuật hoài (A.2354)
- Vãn Kim Giang Nguyễn tướng công trướng văn (VHv.2162)
Thơ văn của ông còn được tìm thấy trong các sách:
- Chư đề mặc (VHv.18) [Trường Yên động mặc tích]
- Danh gia bút lục (AB.325) [Thám hoa Vũ Phạm Hàm văn tập]
- Danh gia sách văn tập (VHv.1607/1-8) [T.8 Thám hoa Vũ đại nhân trường]
- Đăng long sách tuyển (A.115/1-2)
- Đối liên thi văn tạp chí (VHv.219)
- Hà Đông danh gia đối liên thi văn tập (VHv.2594)
- Hán Nôm thi văn tạp lục tập (VHv.149, VNv.153)
- Hiếu cổ đường thi tập (VHv.106)
- Hoàng Nguyễn danh gia hạ khải (A.3073)
- Long tuyển thí sách (VHv.319/1-2)
- Quốc triều danh nhân thi thái (VHv.37)
- Tạp văn sao (VHt.6)
- Tân giang từ tập (VHv.273)
- Tân giang văn tập (A.532)
- Thám hoa văn tập (A.528)
- Tuỵ phương phú tập (A.2842)
- Tuyên Quang tỉnh phú (A.964, A.1054, VHv.1392)
- Văn đế thực lục (AB.124)
- Vi giang hiệu tần tập (VHv.216)
Vũ Phạm Hàm 武范邯 (1864-1906) là một người thông minh xuất chúng, đỗ Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi), lịch sử Việt Nam chỉ có ông và Lê Quý Đôn (triều Lê) là đã làm được điều đó.
Vũ Phạm Hàm sinh năm Giáp Tý (1864), quê ở làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là tỉnh Hà Tây) tự Mộng Hải, Mộng Hồ, hiệu Thư Trì.
Năm 21 tuổi, ông đỗ đầu kì thi Hương (Giải nguyên) khoa thi Giáp Thân đời vua Kiến Phúc (1884). Đến khoa thi Hội năm Nhâm Thìn, Thành Thái thứ tư (1892) ông đỗ thủ khoa (Hội nguyên). Do vậy tờ Đồng văn nhật báo đã đăng: Vũ quân kỳ khôi tinh giáng thế, nghĩa là ông Vũ phải chăng là sao khôi giáng thế. Dự thi Đình cùng năm đó, ông lại đỗ thủ khoa (Đình nguyên), giành học vị Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (tức Thám hoa) nê…