Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Tạo ngày 23/07/2014 08:05 bởi
hongha83, đã sửa 3 lần, lần cuối ngày 23/07/2014 08:43 bởi
hongha83 Nguyễn Trung Thu (26/9/1938 - 6/6/2009) là nhà giáo, nhà thơ. Ông sinh ở làng Kim Liên, Hà Nội, là con thứ 4 trong gia đình có năm anh chị em nhưng em gái út mất khi còn nhỏ nên ông được xem như con út trong nhà. Cha ông mất khi ông mới 6 tuổi. Năm 1956, các anh chị em ông tản cư vào Thanh Hoá, do thất lạc giấy tờ, để cho ông kịp đi học, gia đình đã khai ông sinh ngày 15-8-1940. Mẹ ông qua đời năm 1948 tại vùng tản cư. Mãi sau năm 1954, các chị em ông trở về nhà cũ, tìm được giấy tờ mới xác nhận được chính xác ngày sinh của ông.
Sau khi gia đình trở lại Hà Nội, ông tiếp tục đi học và tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, ĐH Tổng hợp Hà Nội năm 1964, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Tháng 9-1971, ông nhập ngũ theo lệnh tổng động viên, vào tham gia chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Tại đây, ông đã sáng tác bài thơ nổi tiếng Đêm Trường Sơn nhớ Bác.
Năm 1973, ông được rút khỏi chiến trường, điều về Tạp chí Quân đội nhân dân công tác. Năm 1984, ông lại được điều động chuyển ngành, làm việc tại Ban Văn hoá, văn nghệ Trung ương Đảng, sau là Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương. Năm 2001, ông nghỉ hưu. Năm 2007, ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, khi đã 70 tuổi. Ông qua đời vì bệnh ung thư phổi tại Hà Nội.
Tác phẩm:
- Em hoặc không ai cả (thơ, NXB Văn học, 1995)
- Đêm Trường Sơn nhớ Bác (thơ, NXB Quân đội nhân dân, 1996)
- Kỷ niệm về lời ru buồn (thơ, NXB Hội nhà văn, 1998)
- Đôi mắt xa xăm (thơ, NXB Hội nhà văn, 2004)
- Tím biển biếc trời (thơ, NXB Văn học, 2004)
- Thao thiết tiếng khuya (thơ, NXB Hội nhà văn, 2009)
- Nhật ký Trường Sơn (thơ, NXB Văn học, 2010)
Nguyễn Trung Thu (26/9/1938 - 6/6/2009) là nhà giáo, nhà thơ. Ông sinh ở làng Kim Liên, Hà Nội, là con thứ 4 trong gia đình có năm anh chị em nhưng em gái út mất khi còn nhỏ nên ông được xem như con út trong nhà. Cha ông mất khi ông mới 6 tuổi. Năm 1956, các anh chị em ông tản cư vào Thanh Hoá, do thất lạc giấy tờ, để cho ông kịp đi học, gia đình đã khai ông sinh ngày 15-8-1940. Mẹ ông qua đời năm 1948 tại vùng tản cư. Mãi sau năm 1954, các chị em ông trở về nhà cũ, tìm được giấy tờ mới xác nhận được chính xác ngày sinh của ông.
Sau khi gia đình trở lại Hà Nội, ông tiếp tục đi học và tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, ĐH Tổng hợp Hà Nội năm 1964, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Tháng 9-1971, ông nhập ngũ theo lệnh tổng động viên, vào tham gia chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Tại đây, ông đã sáng…