574.42
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
85 bài thơ
2 bình luận
18 người thích
Tạo ngày 18/09/2005 18:17 bởi Vanachi, đã sửa 4 lần, lần cuối ngày 15/12/2009 19:54 bởi karizebato
Đinh Hùng (3/7/1920 - 24/8/1967) người làng Phượng Dực, tỉnh Hà Đông cũ, nay là xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Ngoài việc ký tên thật Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.

Đinh Hùng là con út cụ Hàn Phụng (tên Phụng, chức quan Hàn lâm thị độc), thuở nhỏ theo bậc tiểu học tại Trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại Trường Bảo Hộ, tức Trường Bưởi tại Hà Nội. Sau khi đậu Cao đẳng Tiểu học hạng bình thứ và được học bổng theo ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì ông “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn trên” (theo lời kể của Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để theo nghiệp viết văn, làm thơ.

Năm 1931, người chị thứ ba của ông tên Tuyết Hồng, là một nữ lưu tân tiến và là một…

 

Mê hồn ca (1954)

Đường vào tình sử (1961)

Tuyển tập chung

 

 

Ảnh đại diện

Các nhận định về Đinh Hùng

Mô tả về nhà thơ Đinh Hùng, nhà văn Mặc Đỗ viết:

Tôi thật sự “nhìn thấy” thi sĩ Đinh Hùng, khi một ngày cuối thu 1945, tôi có mặt ở Hà Nội và trông thấy Đinh Hùng ở ngoài đường... Mái tóc dài phơ phất trước gió, chiếc áo bành tô màu sậm, một cái “catton” khá lớn cắp dưới nách: tôi nhìn thấy rõ nhà thơ tượng trưng Pháp Rimbaud mà Đinh Hùng hằng chịu ảnh hưởng. Con người tài hoa này không riêng trong hoạt động thơ văn, mà còn muốn biểu hiện tư chất tài hoa trong lối sống...
Nhà văn Tạ Tỵ kể:
Trước mắt tôi, dưới làn khói mỏng manh tự như tơ, Đinh Hùng nằm nhỏ nhoi như một đứa bé. Mái tóc nặng nề lẫn vào bóng tối. Đôi mắt tinh anh không còn nữa, nó mở nửa dài dại. Tôi biết Đinh Hùng đang nhập mộng...
Vì dấn thân quá sớm, nhất là dấn thân vào một địa hạt phức tạp đầy dẫy ưu phiền, Đinh Hùng đốt cháy thân phận chẳng những trên đầu ngọn bấc (ý nói việc hút á phiện) mà còn ở men rượu và thú cầm ca sênh phách...
Nhà văn Mai Thảo thuật:
Tôi được biết là sau ngày người con gái mang tên Liên từ trần, Đinh Hùng bỏ đi đến Hải Dương... Vượt Hồng Hà, bỏ Hà Nội, chàng tuổi trẻ khóc ngất, không mang theo gì hết ngoài nỗi đau đớn và một tấm hình. Đó là di vật cuối cùng của Liên...
Nhận xét về thơ Đinh Hùng, nhà văn Huyền Viêm viết:
Những cái tang thưở thiếu thời, và sau này là cái chết của người yêu tên Liên đã ảnh hưởng đến rất nhiều tâm tính của Đinh Hùng, nên thơ anh thường đượm vẻ ảm đạm, bi thương....
Nhà biên soạn Nguyễn Tấn Long đã phân tích thơ Đinh Hùng như sau:
Từ bỏ một thế giới hiện hữu, tìm về một thế giới thuở sơ khai, tạo dựng một không gian mới cho tâm tư, thi nhân không sống bằng thực tại, mà sống bằng nguồn siêu tưởng...
Và nếu ở tập Mê Hồn ca mang nặng tính chất siêu tưởng thì ở tập Đường vào Tình Sử, Đinh Hùng đã đem khúc nhạc lòng mình phổ vào lòng đời như một kẻ khát tình không bờ bến, và chúng ta không còn thấy tính chất siêu tưởng nữa.
Nhà thơ Thi Vũ cũng có nhận xét tương tự:
Mê Hồn Ca, là khuôn trời Liêu Trai, là những đêm âm phần trộn lẫn với trưa dương thế. Thì Đường Vào Tình Sử khác hơn, là những bài thơ tình của miên viễn chiêm bao, của những môi hôn trong mộng, của man mác hương trinh. Mộng vẫn còn mê ảo, nhưng thực đã có da có thịt trong ngôn ngữ tình yêu... (Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam 1945-1985, Paris, 1993)
Nhận xét tổng quát về thơ Đinh Hùng, có một ý kiến rất đáng chú ý (không rõ người viết):
Sở trường của Đinh Hùng là thơ Tượng Trưng. Thơ ông trau chuốt, gọt dũa, có nhiều ý hay lạ, nhiều hình ảnh và ngôn từ quái dị, yêu ma. Ông cũng có những tác phẩm đài các, sang trọng đến lạ lùng. Tạ Tỵ gọi Đinh Hùng là nhà thơ với “cơn mê trường dạ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường thì lại chê thơ Đinh Hùng “loè loẹt, ghê ghê như son phấn”.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Bình luận của nhà thơ Du Tử Lê

Cảm nghĩ của tôi về Đinh Hùng trước khi được tiếp xúc với ông, ở hai trạng thái thật dị biệt. Ngày còn cắp sách đến trường, cũng như mọi cậu học trò mê thơ văn, tôi tìm gặp Đinh Hùng trong những bài thơ đăng rải rác trong các báo, qua những cuốn sách loại phê bình văn học nghệ thuật như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân… Tôi đã vẽ trong trí tưởng tượng thơ ngây, non nớt, hình ảnh một chàng lãng tử ngơ ngác giữa dòng đời mà hành trang chỉ là những mộng ảo, những ước mơ dang dở, những trăng gió bướm hoa, những thiên thai bồng đảo; mà võ khí tự vệ chỉ là một tấm lòng đắm đuối đê mê thiết tha không tưởng về một thiên đường đã mất. Tôi nghĩ về ông bằng một khuôn dáng lý tưởng đó, và đời sống của ông chắc như đời của trích tiên, ngày đêm mơ mộng tiêu dao. Người ấy phải là người có khuôn mẫu thanh cao, dáng đi thật nhẹ nhàng khoan thai, tâm hồn không bao giờ phải rộn phiền thế cuộc…

Và khi lớn lên, tập tễnh làm văn nghệ, mỗi khi viết được một bài thơ, một đoạn văn đắc ý, tôi sung sướng, rộn ràng gò lưng chép lại, nắn nót từng chữ từng nét (mặc dù càng nắn nót càng xấu) rồi gửi tới một tờ báo thích nhất. Lúc này, tôi bắt đầu giao thiệp với vài người đồng sở thích văn nghệ như tôi. Họ kể cho tôi nghe rất nhiều điều xấu xa về Đinh Hùng. Như một người tình quá thành thật đắm say mà bị phụ rẫy một cách tàn nhẫn phũ phàng. Tôi bắt đầu có ý nghĩ không tốt về ông. Hình ảnh đẹp về một thi sĩ Đinh Hùng như một con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư trong mùa thu buồn thiếu phụ đã không còn. Nó nhường chỗ cho vóc dáng một tên cai thầu văn nghệ, một trí thức lưu manh! Cũng từ đó, tôi rất bực dọc mỗi khi đọc thơ ông, vì tôi nghĩ ông đã tự lừa dối ông, lừa dối mọi người, khi hạ bút viết những bài thơ bàng bạc ý nghĩ kiêu sa, khinh mạn cuộc đời. Những bài thơ chan chứa tình người phảng phất nét siêu hình đông phương thuần tuý, hay u hoài chua xót như những giọt lệ còn vướng đọng trên mi người trinh nữ vừa vuột mất thiên đường trong giấc mộng.

Tuy vậy, tôi chưa hề biết mặt ngang mũi dọc ông, cũng như chưa hề biết cuộc sống thực của ông ra sao. Những cảm nghĩ phức biệt, những hình ảnh trừu tượng cứ dềnh lên trong trí tôi mỗi khi nghĩ tới ông… Mỗi khi tiếng nói đầy giai điệu từ đài phát thanh vang vọng đến tận đáy tâm hồn tôi, giây phút đó, tôi nghĩ không lẽ một con người mang giọng nói đầy tình cảm, quyến rũ như thế lại có thể, xấu xa thủ đoạn vậy sao? Không lẽ với cả một Mê hồn ca lại không mang một chút sắc diện tâm hồn tác giả? Tôi băn khoăn tự hỏi phải chăng những người bạn văn nghệ của tôi đã quá chủ quan, thiên lệch, bất công, hay ghen tức với tài hoa của một thi sĩ khởi nghiệp thi ca từ tiền chiến và in đậm vóc dáng mình ở hậu chiến. Những mâu thuẫn đó càng ngày càng xui khiến, thôi thúc tôi tìm đến ông để nhận diện gương mặt linh hồn đích thực của ông, không sơn vẽ, không phấn hương giai thoại.

Tôi có quen biết vài người thường giao thiệp với ông, nhưng vì tự ái, vì mặc cảm mình chưa có “một cái gì” cho nên không bao giờ tôi thổ lộ điều ao ước đó với họ. Hơn nữa, giữa tôi và ông cũng như giữa tôi và những vị hữu danh khác, tôi vẫn cảm thấy có một sự cách biệt (mơ hồ thôi) nhưng rộng lớn, xa vời. Dù phục hay không phục, với tôi, họ cũng là một thứ ghê gớm lắm (điều này không có gì đáng lấy làm lạ, vì chính tôi dù không là cái gì mà đã có người bạn mới gặp lần đầu, thú nhận rằng: Hồi chưa biết mặt, tôi cứ tưởng ông ghê gớm, thần thánh lắm, hoá ra… cũng như mọi người. Hay: Tôi tưởng anh to lớn già dặn lắm, ai ngờ nhỏ bé thế này). Vì thế, từ ngày này qua ngày khác hình ảnh ông luôn luôn biến thái trong trí tưởng tôi, hoặc huy hoàng lộng lẫy, hoặc xấu xa, tệ hại hơn, tuỳ những giai thoại tôi được nghe về ông. Mãi cho đến khi tôi in xong tác phẩm đầu tay nhờ T.P đưa lại nhà ông để gửi biếu cuốn thơ, với ý muốn nhờ ông giới thiệu trên ban Tao Đàn. Lần đó không gặp. Cách một tuần sau, tôi không còn nhớ rõ ngày nào, nhưng khoảng đầu tháng Ba, tôi lại trở lại. Căn nhà ông ở là một trong ba căn lầu liền nhau, có lối thang đi riêng, nằm ngay tại ngã ba TQK và NVT. Sau khi gõ nhẹ cánh cửa khép kín, im lìm, tôi lắng tai nghe, không một tiếng động vọng ra. Tôi hơi thất vọng. Nhưng đúng lúc đó cậu con trai đầu của ông ra mở cửa. Chúng tôi bước vào. Cảm giác đầu tiên của tôi là cái cảm giác ngơ ngẩn, lạc lõng trước khung cảnh lạnh lẽo, tối tăm của căn phòng ẩm mốc. Bốn bức tường nâu đã ngả mầu đen xám. Tôi nghĩ ít nhất căn nhà này cũng có tới 10 năm chưa một lần được tu bổ. Đối diện với cửa chính, trên tường cao là một trang thờ khá to, màu đỏ xẩm, hình như đây là bàn thờ Phật, hai bên bàn thờ là những câu đối viết trên giấy điều. Ngay dưới chân tường một đống sách được gói ghém cẩn thận và phủ kín bởi miếng giấy dầu (sau này tôi được biết đó là mấy trăm cuốn thơ Đường vào tình sử!). Ngay bên tay phải là một tủ kính nhỏ, với loại tủ kính này tôi nghĩ dùng để bày tách chén thì hợp lý hơn là để những cuốn sách đủ loại Tây, Tàu, Ta, truyện, thơ, biên khảo ngổn ngang… Trên mặt tủ kính, gia chủ bày một bát hương, hai tấm ảnh, cụ bà, cụ ông, có lẽ là song thân của thi sĩ. Bát hương còn trơ vài chân hương lạnh. Đối diện với cái tủ kính này là căn buồng nhỏ, giống như một nhà bếp, với một chiếc bàn gỗ, trên bày bừa bãi ít bát chén ly tách. Phía trái cửa chính để chiếc bàn tròn, kê sát góc nhà, một bên để một chiếc ghế, bên kia ba chiếc, loại salon gỗ trơn. Một chiếc màn gió ngăn với phòng bên cạnh. Nếu không nhìn kỹ ta có cảm tưởng tấm màn mầu vàng, kỳ thực nó thuộc loại vải sọc.

Sở dĩ tôi dài giòng như vậy, là để bạn có thể hình dung một cách rõ ràng “phòng văn” của một thi sĩ đã hơn một lần tiếng tăm lừng lẫy trên văn giới. Thú thực, tôi không thể ngờ căn nhà ông lại hoang vắng, tẻ nhạt, tiêu sơn đến thế. Cái nghèo đã quá rõ. Làm sao che đậy được khi các đồ vật đều mang dấu vết tàn phai của thời gian, của bụi bám thảm đạm.

Cảnh trí này đã nói lên được một phần nào bản sắc tâm hồn ông, coi thường đời sống vật chất, không điểm trang chưng diện, không có ý dấu diếm. Cái vô trật tự không làm dáng, không giả tạo nguỵ trang, thật thơ, thật đáng mến. Một thứ tình cảm dịu nhẹ, hơi buồn nhưng không hẳn là buồn, hơi bùi ngùi nhưng không hẳn là xót xa trải đầy tâm hồn tôi. Tôi không muốn nhìn lâu hơn những đồ vật trong căn phòng này.

Một lát, Đinh Hùng từ phòng bên đi ra, với dáng dấp vội vàng, hấp tấp, chiếc quần ngủ mầu nâu nhầu nát, chiếc áo sơ mi dài tay trắng tinh, nút vàng chưa kịp cài. Cánh tóc xoả hai bên tai hệt như hai chiếc cánh của một con gà sau cơn xáp chiến, thả rũ xuống xác xơ mệt mỏi; ông đưa cả hai tay vuốt lên mớ tóc rồi bắt tay chúng tôi với nụ cười cởi mở, duyên dáng nở trọn trên môi. Sau khi nghe T.P giới thiệu, ông nhìn tôi và nói:

- À, à, hay quá, hôm nay mới được gặp đây. Ông đưa tay ra dấu mời chúng tôi ngồi rồi vồn vã hỏi thăm về đời sống của T.P và tôi. Ông nói giọng nhanh, âm thanh reo vui ròn rã. Ông kể lại vài bài thơ của tôi mà ông đã cho ngâm trong ban Tao Đàn. Khi người con đem bình nước ra, ông trở vào phòng bên tìm cuốn Đường vào tình sử tặng cho T.P. Cuốn sách được đề tặng cho T.P từ năm 1961 nhưng chưa có dịp gửi. Ông nói sẽ soạn một số sách tặng tôi sau.

Sau cử chỉ, lời nói, nét mặt ông bộc lộ rõ cái chí tình, không kiểu cách, không đỏm dáng, làm tôi quên bẵng bao nhiêu thành kiến không đẹp về ông.

Tôi có cảm tưởng như gần gũi và quen biết ông thuở nào rồi. Cái ý tưởng cần phải đề phòng, thận trọng không còn nữa. Điều ức đoán của tôi về ông hoàn toàn sai lạc. Tôi cảm động và lúng túng không biết nên nói gì! Từ đó tất cả những câu chuyện dĩ vãng được nhắc nhở lại. Nào là chuyện cách đây 10 năm T.P đến nhậu nhẹt tại nhà ông, say quá phải ngủ lại, tới chuyện in tập thơ Đường vào tình sử, tới thời gian ông làm báo. Xen lẫn là những câu thăm hỏi về đời sống riêng của tôi cũng như những câu tôi hỏi có tính cách tra vấn về một số điều tiếng mà ông đang phải gánh chịu. Chính trong cuộc nói chuyện này, tôi được biết thêm nhiều sự thực đau lòng, nhiều sự thực mà người ta không bao giờ tưởng tới, thế mà nó có, nó là một sự thực hiển nhiên, những nhân vật tạo nên nó vẫn còn hiện diện đầy đủ tại đây (tôi sẽ lần lượt trình bày những sự kiện này ở các trang sau). Ông cũng cho tôi biết hồi ông làm báo NVTD, ông có làm một chương trình đặc biệt dành riêng để giới thiệu thơ của Bùi Giáng, tôi và một người nữa, đại khái là những người có tiếng thơ mang ít nhiều sắc thái cá biệt khó chìm lẫn. Chương trình này đã được thâu nhưng xảy ra cuộc chỉnh lý hình như của Tướng K, lật tướng M. nên đài Phát Thanh không cho phát ra. Buổi chiều qua lúc nào chúng tôi không hay, đèn đường khu Tân Định đã bật sáng. Hai tiếng rưỡi đàm thoại trôi quá mau. Chúng tôi từ biệt ông, sau cái xiết tay thân mật lời dặn dò ân cần nhớ lại chơi.

Hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được về ông trong buổi gặp đầu tiên này là hình ảnh của một thi sĩ tên tuổi, với hai thứ tóc trên đầu và một thân xác héo khô, nhỏ bé, mất hút trong chiếc cầu thang hẹp xoáy trôn ốc. Dọc đường về, T.P có nói thêm với tôi về cái nhiệt tình của Đinh Hùng. Nhưng tôi biết trong chúng tôi mỗi người đều ẩn chứa một cảm nghĩ riêng tư. Ở tôi là cái định mệnh khắt khe, cay nghiệt, là làm thân tằm nhả tơ trong một nước có gần năm ngàn năm văn hiến nhưng nghèo nàn chậm tiến; chỉ dư thừa chiến tranh điêu tàn, khốn khổ; chỉ thừa máu xương nước mắt. Biết đến bao giờ? Chừng nào? Bóng tối xã hội mới thôi bủa vây những con người tự nguyện hiến dâng đời mình cho văn chương nghệ thuật, để ít nhất trong những tháng, năm chót của cuộc đời, họ còn được thấy ánh sáng vinh quang và cũng là ân huệ mưa móc của quần chúng đương thời!!!

TIỂU SỬ ĐINH HÙNG

Sinh ngày 3-7-1920 tại làng Trung Phụng ngay ngoại ô thành Hà Nội. Ngôi làng này nằm ngay sau lưng khu phố Khâm Thiên. Những ai đã từng ở Hà Nội, đều phải công nhận Khâm Thiên là khu ăn chơi nổi tiếng nhất. Đây là nơi tập trung các nàng ca kỹ tài sắc bốn phương.

Gia đình ông thuộc giòng trưởng giả. Thân phụ ông sinh được sáu người con, hai trai bốn gái. Ông là con út. Theo tập tục, cũng như theo tâm lý học, người ta thấy hầu hết những đứa con út trong gia đình thường được nuông chìu (quan niệm giàu con út, khó con út) và sớm phát triển các tình cảm, trí thông minh, trực giác nhậy cảm hơn các anh chị. Vì ngoài sự được chăm chút, nâng niu của cha mẹ, nó còn được tiếp nhận những tình cảm, những kinh nghiệm trên nhiều bình diện phức tạp từ nơi anh chị.

Đinh Hùng cũng rơi vào định lệ đó. Hơn nữa, ông còn được thừa hưởng giòng máu hào hoa, nghệ sĩ của thân phụ. Thuở đó, thân phụ ông là một trong những khuôn mặt thân quen, một khách chơi thường trực của Khâm Thiên. Không chỉ thế, thân phụ ông còn đem cả cô đầu về nhà, tổ thức thù tạc với bạn hữu thâm đêm, suốt sáng. Do đó tuổi thơ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí ẩm ướt tiếng ca, câu hò, tiếng sênh, tiếng phách. Trí óc non nớt của ông đã sớm in hằn thanh sắc của những nàng Kiều xóm Khâm Thiên cùng cốt cách phong lưu tài tử của những tay tổ ăn chơi. Cái cảnh trí mộng ảo quyến rũ mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương (cũng là anh rể ông) đã ghi lại trong bài Nghe hát:

Phách ngọt, đàn say nệm khói êm
tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm
canh khuya đưa khách lời reo ngọc
mơ gác tầm dương thoảng áo xiêm
dù lạ nghìn thu xa tám cõi
sen vàng như động phía chân tiên
nao nao khói biếc hài thương nữ
trở gối hoa lê rụng trắng thềm
Sống trong khung cảnh đó, bản chất nghệ sĩ, nòi tình đã được phát triển rất sớm.

Năm lên 6, 7 ông đã chúng tỏ có năng khiếu về hội hoạ. Một người anh rể của ông là Đ/U, nhiếp ảnh gia Vũ An Đạm cho biết: khoảng thời gian này ông đã say mê hội hoạ.

Năm 13, 14 tuổi ông đã nghiện thuốc lào (một thứ kích thích cảm giác gấp trăm ngàn lần thuốc lá, cái say của thuốc lào nó cũng ngất ngây mê mẩn gần như thuốc phiện). Cũng tuổi này, ông mê một cô đào hát trẻ mới vào nghề thường được thân phụ ông mời về nhà. Ta có thể coi đó là hành vi hết sức táo bạo, liều lĩnh giữa một khung cảnh xã hội còn chịu ảnh hưởng sâu đậm đạo lý Khổng Mạnh, giữa xã hội mà người ta sống trong sự đề phòng miệng tiếng búa rìu. Người ta hầu như sống không phải cho mình mà sống cho cái khuôn mẫu ước lệ xã hội.

Ngay khi bước chân vào trường Bưởi, ông đã cùng một vài người nữa, làm những tờ bích báo. Hoạt động văn nghệ này đã gây nên một tiếng vang trong trường, khiến ông phải bỏ học sau này.

Năm đệ tứ, ông bắt đầu làm thơ nhưng còn dấu diếm không dám cho ai biết, vì hồi đó, ông đã cảm thấy: thơ là một địa hạt của chữ nghĩa, kiến thức, kinh nghiệm. Bây giờ ông vẫn còn giữ nguyên quan niệm đó và phủ nhận tất cả những trường hợp người ta gọi là thần đồng thi ca. Như cách đây khá lâu, ở Pháp, người ta đã có một thời xôn xao, bàn tán khi báo chí loan tin thần đồng thơ, cô bé Drouet 11 tuổi với những bài thơ nhỏ thật sâu sắc, trong sáng. (1)

Tới năm dọn thi tú tài phần nhất, ông mới bắt đầu để mọi người biết tư cách thi sĩ của mình. Sau khi đỗ tú tài phần nhất, một lần nữa, ông bị ban giám đốc nhà trường cảnh cáo, ý bảo nếu còn muốn theo học thì hãy thôi làm văn nghệ đi. Ngoài ra, ông còn bị nhiếc móc về mái tóc bù rối rất nghệ sĩ nữa. Bị chạm tự ái, ông làm đơn xin thôi học.

Nhờ gia đình khá giả, ông tiếp tục sự học bằng cách tới thư viện. Nhưng cũng từ đó trở về sau, không bao giờ ông thi thêm một khoá nào nữa.

Khi rời bỏ học đường, ông chính thức hoạt động văn nghệ và bắt liên lạc với những văn nghệ sĩ đương thời. Tác phẩm đầu tiên của ông được đăng trong giai phẩm Mùa gặt mới của ông Lê Văn Văn, giám đốc nhà xuất bản Tân Việt ấn hành năm 1940. Tuỳ bút này sau được chọn đăng trong cuốn Việt Nam Văn Học Bình Giảng của Phạm Văn Diêu (chúng tôi có trích dẫn trong phần sau)

Song song với Mùa gặt mới, phê bình gia Vũ Ngọc Phan cho ra tuần báo Hà Nội Tân Văn. Qua trung gian Nguyễn Đức Chính (2) (bạn học của Đinh Hùng) ông đưa cả một tập thơ cho Vũ Ngọc Phan coi trước, và ông Phan đồng ý nhận đăng dần dần những bài thơ trong tập này.

Vài số sau ông Phan giao hẳn trang thơ cho Đinh Hùng phụ trách. Thủa đó người làm thơ không bao nhiêu nên chẳng có ai gửi thơ tới cả. Chỉ có thi sĩ Vũ Hoàng Chương lúc đó đang in cuốn thơ Say, đưa tập bản vỗ cho ông đăng dần với lời giới thiệu của Mạnh Phú Tư. Sau hai tháng cộng tác với HNTV, được 8 số. Ông không làm với HNTV nữa.

Cũng từ đó không còn chỗ đăng thơ, nhưng bù lại ông được quen biết với nhà văn Thạch Lam.

Nguyên hồi đó Thạch Lam cho xuất bản cuốn Hà Nội 36 phố phường, ông viết thư cho Thạch Lam đại khái nói là một trong những người hâm mộ từ lâu, nay viết thư xin góp ý kiến về bài Thịt chó. Vì nhà Thạch Lam ở sâu trong xóm làng Trung Phụng, mỗi khi xuống phố đều phải đi qua nhà Đinh Hùng. Một hôm Thạch Lam ghé vào nhà ông, ông sửng sốt, kinh ngạc… những tưởng thư viết gửi Thạch Lam cũng chỉ như trăm ngàn trường hợp khác. Ông nói: “Đây là một khích lệ lớn lao đối với tôi.”

Nhờ Thạch Lam giới thiệu, ông quen hết các nhà văn trong nhóm T.L.V.Đ như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ…

Và một số người khác nữa như Huyền Kiêu, Nguyễn Tuân… Riêng Thạch Lam, Huyền Kiêu và ông sau này kết nghĩa anh em… ngoài ra ông kết bạn với thi sĩ Trần Dần (5) và cùng Trần Dần lập một nhóm lấy tên là nhóm Thơ Tượng Trưng.

Năm 1945, khi chiến tranh Việt Pháp lan tràn tới Hà Nội, theo lớp sóng tản cư, ông chạy vào Hà Đông rồi Vân Đình. Thời gian này ông bị V.M trưng dụng bắt làm việc cho Sở Thông Tin khu 2 (Liên khu 2).

Ở đây, họ triệt để khai thác ông bằng cách đưa ông vẽ ảnh của những người đang cộng tác với Pháp tại miền Nam như B.S Nguyễn Văn Thinh, Lê Khắc Hoạch để vẽ truyền thần, rồi cho in vào truyền đơn, kèm theo ít câu vè sỉ nhục…

Một trường hợp đau xót hơn cả là họ bắt ông vẽ lại chân dung nhà văn, lãnh tụ cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Họ cho in vào truyền đơn đem phân phát phổ biến tất cả các khu, các vùng, với những lời chửi rủa hèn hạ.

Làm việc cho thông tin khu 2 được chừng 3 năm, khi V.M ngày càng xiết chặt dần, ép nghệ sĩ vào con dường phục vụ giai đoạn, phục vụ chính trị, ông cảm thấy không thể kham nổi nữa, bèn cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương bỏ trốn về Thái Bình. Ở Thái Bình cùng thi sĩ Vũ Hoàng Chương, ông mở một ngôi trường nhỏ trong một làng tương đối còn yên ổn. Nhờ dân làng phần nhiều đều trọng chữ nghĩa nên ông sống êm thấm được chừng 1 năm. Tới đầu năm 1950, quân viễn chinh Pháp cùng quân đội Bảo Hoàng mở cuộc hành quân tảo thanh vùng này. Một số dân chúng không chạy kịp liền bị lùa về vùng do quân Pháp kiểm soát. Trong số những người này có cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương và ông. Sau đó ông cùng họ Vũ tìm đường trở về Hà Nội.

Với năm năm trường lưu lạc gian truân, Đinh Hùng đã sáng tác được hai tác phẩm thơ: Tiếng Ca Bộ Lạc và văn: Tiếng Ca Đầu Súng (loại bút ký).

Ở Hà Nội, ông lại tiếp tục hoạt động văn nghệ cùng một số anh em có mặt tại thành như Ngọc Giao với giai phẩm Lửa Cựu, Hoa Sen, Kinh Đô Văn Nghệ (do chính ông chủ trương) rồi cùng Kỳ Văn Nguyên, Thanh Nam trông nom tờ tuần báo Hồ Gươm.

Năm 1951, ông lập gia đình, Bút hiệu Thần Đăng, Hoài Điệp Thứ Lang cũng bắt đầu xuất hiện.

Năm 1954, thi sĩ Hồ Dzếnh, giám đốc nhà xuất bản Tiếng Phương Đông sau đổi lại là Bình Minh cho in thi phẩm Mê hồn ca của Đinh Hùng. Nhưng bất hạnh cho ông cũng như cho Hồ Dzếnh là hiệp định GENÈVE thình lình được ký kết giữa Việt Minh và thực dân Pháp. Đinh Hùng đành phải lên máy bay với 200 cuốn thơ đầu tay cùng vài bộ quần áo cũ.

Rất may cho Đinh Hùng ở Sàigòn ngay lúc đầu, đã được một số anh em mời cộng tác với tờ Tự Do cùng Như Phong, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan… sau đó ông tiếp tục cộng tác với các báo khác như: Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong, Người Việt Tự Do, Tiểu Thuyết Tuần San v.v… Ngoài ra ông còn dạy học, viết truyện, làm đài phát thanh, đóng kịch…. Tóm lại là ông làm rất nhiều nghề. Năm 1961, ông được trao Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc với thi phẩm Đường vào tình sử.

*

Ông không bao giờ đặt thành vấn đề Cũ, Mới. Ông quan niệm tất cả chỉ là hình thức diễn tả ý tình, điều quan trọng là có nói lên được điều mình muốn nói hay không và người đọc có hiểu, hay cảm được không? Kỹ thuật cũng không mấy quan trọng (?) – Cần nhất người làm thơ thể hiện được bản sắc thi sĩ mà ông thường dùng câu “gương mặt linh hồn” không trộn lẫn, vay mượn và một điều nữa phải luôn luôn tìm đường hướng mới cho thi ca (thế giới thi ca là thế giới mênh mông vô cùng tận).

Nói về tình trạng thi ca bây giờ, ông cho rằng nhờ phương tiện ấn loát cũng như phổ biến dễ dàng hơn trước rất nhiều, nên thi ca đã bành trướng mạnh, nhanh nhưng chỉ lan tràn về chiều rộng, về lượng mà thôi, phẩm, trái lại rất ít.

Nói riêng về thơ xuất bản trong năm 1964 những thi phẩm gửi tới bắt thi ca phải phục vụ giai đoạn. Cái mình khác và hơn Cộng Sản là ở chỗ mình còn tình, còn mộng, mình không thể sống như con vật theo lối CS được, mình còn cái giá trị làm người, còn giữ được thiên chức cao quí đó. Dù có cưỡng bức nghệ sĩ phải sáng tác theo một đường lối nào đó như Việt Cộng đã áp dụng ở ngoài Bắc, thì rồi cũng có lúc bản năng tự do vùng dậy, (trường hợp Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình).

*

Ông kết nghĩa với nàng tiên nâu rất sớm, nhưng vẫn giữ được vẻ hào hoa tao nhã của một văn nhân. Có nhiều người tỏ ý khắt khe với Đinh Hùng trên khía cạnh này. Tôi nghĩ với một người như Đinh Hùng nếu không có chất kích thích trên, chắc đâu chúng ta đã có một Mê hồn ca. Nói thế không có nghĩa là tôi ca ngợi hay đề cao sự kiện trên. Tôi chỉ muốn nói nếu chúng ta đã chấp nhận một Đinh Hùng thi sĩ thì chúng ta không nên hẹp hòi mà từ chối, lên án một Đinh Hùng “đi mây về gió”.

Cũng như phần đông những nghệ sĩ khác, ông chuyên môn làm việc về khuya, kể cả đọc sách. Ông làm việc khi không còn trông thấy mặt người trong nhà.

TÁC PHẨM

Ngoài Mê hồn ca (1954), Đường vào tình sử (1961), Đinh Hùng còn một tác phẩm loại dã sử võ hiệp, Kỳ nữ gò Ôn Khâu, do nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng ấn hành, dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Tác phẩm chưa xuất bản có:
- Tiếng ca Bộ lạc (Thơ)
- Tiếng ca đầu súng (Ký sự)
- 8 truyện dài loại dã sử tiểu thuyết.

*

Dưới đây chúng tôi xin lục dẫn tuỳ bút Cảm thu đăng trong giai phẩm Mùa gặt mới xuất bản tại Hà Nội năm 1940 đồng thời đây cũng là sáng tác đầu tiên của thi sĩ được đăng trên báo.

Cảm thu

Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ…

Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng, hoa phù dung nở trắng như một linh hồn còn trẻ?

Nắng ở đây vẫn là nắng vàng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Tôi vẫn ngờ như không sự thay đổi, vì lại thấy mình đi trên con đường này, thu năm nay, giữa lúc cây vàng rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ, và nay cũng thấy thu về để nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đằng kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh? Và gió nào vương vấn hồn tôi, hay cũng chỉ là dư thanh của một ngày xưa cũ? Chao ôi! Buồn lại nhiều rồi, nhưng chỉ buồn như năm trước. Lòng tôi chẳng biết tìm ai mà nhớ, hôm nay nhớ lại buồn qua mới thấy nắng kia nhiều dĩ vãng.

Tôi nhớ một người lữ khách nào xưa, ra đi từ một mùa thu… Thế rồi cũng một mùa thu trở lại những bước đầu tiên trên con đường bạn, mắt buồn như nước, mảng tìm hồn mình hiu hắt trong hồn thu mới…

Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và lại cả rừng cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều.

… Từ hôm rời chân ở bến sông vàng.

Từ biệt con thuyền phiêu bạt, tôi đã hết nhớ dãy núi xanh phơn phớt đằng xa và bâng khuâng trở lại con đường quê thân mật.

Đi trên đất đó, giữa hai ruộng ngô thơm nghe ngào ngạt… Hương này có phải hương xưa? Ôi! Những dây đậu vẫn còn non mà luống khoai lang đã xanh tươi rồi nhỉ? Đi trên đất đỏ, bên những luống rau cải cúc và dẫm lên cỏ may vàng. Đây là những con bướm cũ, những cánh hoa xưa. Và này đây tất cả Ngày xưa: từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn…

Thôi! Thôi! Tôi không còn trẻ thơ nữa để say sưa đuổi bắt bướm đồng, và chẳng ngắm gió sầu mây, chỉ hoa lòng nở cũng nhiều bông trắng!

Thương nhớ vì sao! Tôi sớm giã từ hồn niên thiếu, hôm nay đi giữa cánh đồng lại thấy tuổi nhỏ của mình tản mạn trên từng cánh bướm, sắc hoa, và chân bước đi những bước ngậm ngùi, bởi chưng lòng tưởng con đường tan tác cánh hương của đoá xuân hồng thuở cũ.

ĐINH HÙNG
(Trích trong VNVHGB của Phạm Văn Diêu)
Như “từng cơn gió nhỏ, từng sợi dây buồn”, qua đoạn văn này, Đinh Hùng cho ta cái cảm tưởng bắt gặp hồn mình, một tâm hồn thơ trẻ, đang bay bổng cùng hồn thu hiu hắt, cùng cánh bướm đồng nội, cùng hoa nắng dĩ vãng… Để thấy: “… buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều”. Nhưng sự thực linh hồn chúng ta, nhất là một thứ “linh hồn còn trẻ” làm gì có hình thù, có màu sắc cho ta cầm bắt hay nhìn ngắm được chân dung. Chính ở điểm đó Đinh Hùng đã thành công khi ông cho ta cảm tưởng giáp mặt với linh hồn thơ trẻ mà thời gian đã tàn nhẫn cướp mất, chỉ để lại cho chúng ta những ngậm ngùi, những dư âm thảng thốt, những mùi hương đã tàn bay theo từng cánh bướm, từng sắc hoa bông phù dung một sáng nào nở trắng…

MÊ HỒN CA (1940-1954)

Sự nghiệp thi ca của Đinh Hùng, cũng như mọi người, nghĩa là cũng bắt đầu với vài bài thơ nho nhỏ, ý vay mượn, ảnh hình khuôn sáo. Mãi cho đến khi ông gặp thi sĩ đàn anh Thế Lữ, dần dà ông tự tìm được cho mình một bản sắc, một lối thoát cho tiếng thơ.

Ta có thể coi Thế Lữ là người khuyến khích và nâng Đinh Hùng rất nhiều trong bước khởi đầu. Chính ông cũng nói: “Hồi đó mỗi khi làm xong một bài thơ tôi thường tìm TL đọc cho ông ta nghe. Nhưng lần nào cũng vậy, nghe xong TL lắc đầu bảo: Chưa được, chưa được, cậu cần phải chịu khó, tìm kiếm hơn nữa. Tôi buồn quá, tự ái nổi dậy, tôi nghĩ thế nào cũng phải làm cho được một bài thật hay, không lẽ cứ để hắn (TL) chê hoài!” Sau một thời gian, khi yêu thầm một nàng cô đầu ở Khâm Tiên, ông có làm một bài thơ lấy tên là “Kỳ Nữ”, đem cho Thế Lữ coi, xem xong, lần này Thế Lữ im lặng một lát gật đầu nói:

“Được lắm! Cậu nên làm theo loại này”.

Mê hồn ca từ đó bắt đầu hình thành.

TỪ ĐƯỜNG VÀO TÌNH SỬ TỚI GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG 1961

Nếu tính từ năm ĐH in Mê hồn ca 1954 cho tới Đường vào tình sử 1961 thì hai thi phẩm đã cách nhau gần 7 năm trời, Đường vào tình sử gồm 60 bài thơ Truyện lòngTiếc bướm, in tại nhà in Kim Lai, mang tên nhà XB Nam Chi Tùng Thư, gồm 2000 quyển trên giấy tốt. Với tác phẩm này, ông được lãnh giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc. Nhưng nói tới ĐH người ta thường nhắc tới MHC nhiều hơn, vì MHC mới xứng đáng và tiêu biểu cho những gì là ĐH tức gương mặt đích thực tâm hồn ông.

Tác phẩm Đường vào tình sử được in sau MHC tới 7 năm trời nhưng sự thực lại gồm cả những bài đã được làm trước. Nhận xét đầu tiên của tôi khi đọc xong tập ĐVTS là với tập này, Đinh Hùng không đều tay, không tạo cho mình một cõi riêng, một vùng bao la mang tên Đinh Hùng, tập thơ này mang nhiều tánh cách đánh dấu giai đoạn, ghi khắc kỷ niệm chứ không khoác một giòng tư tưởng. Tuy thế với ĐVTS người đọc cũng bắt gặp cái nguồn mang mang, bàng bạc ảo huyền của tinh thần Đông Phương thuần tuý, tìm về nguồn, tìm về cõi mộng, về với vũ trụ miên trường, vì kiếp sống phù du, cuộc đời vẩn đục, chỉ có linh hồn, chỉ có tình người, chỉ có những giá trị mãnh liệt của tinh thần mới đáng cho chúng ta tôn thờ đeo đuổi. Giữa một xã hội như xã hội VN ta, những giá trị tinh thần, càng mất giá, vật chất càng là cái đích cho con người suy tôn, lao ném cả cuộc đời, cả thân khiếp mình vào cuộc giành giựt, chém giết thô bỉ đó, Đinh Hùng vẫn cố giữ phong thái “thi sĩ” của mình, ông còn tin tưởng và muốn tìm về nguồn suối ngọt ngào của tâm hồn, của tình người, mang mang nỗi sầu xưa của đất nước, của dĩ vãng quê hương, vẫn nuối tiếc cái mà ta có thể gọi là “thiên đường đã mất”. Giữa những tiếng thơ mặc khoác nhiều hình ảnh, nhiều tư tưởng phá phách, nhiều nôn mửa, vay mượn, tối tăm, tuyệt vọng trong cái thế giới hiện sinh, vay giựt giả tạo của đa số những vị làm thơ hôm nay, ta trở về tìm gặp ĐH trong cái không khí ảo huyền mê mộng, trong cái lớn thật thâm trầm, thật dịu nhẹ của một số thi bản rải rác suốt 110 trang thơ khổ lớn.

Và dưới đây là những bài thơ trong Đường vào tình sử, những bài nói lên phần nào cái bản chất “Nòi tình, kiếp mộng” của thi sĩ, đồng thời là những bài được nhiều người ưa thích.

TÌNH TỰ DƯỚI HOA (1)

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng
có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
thăm thẳm nhìn tôi không nói năng

Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
ôi mộng nào hơn giấc mộng này
mùi phấn em thơm mùa hạ cũ
nửa như hoài vọng nửa như say

Em đến như mây chẳng đợi kỳ
hương ngàn gió núi động hàng mi
tâm tư khép mở đôi tà áo
hò hẹn lâu rồi – Em nói đi

Em muốn đôi ta mộng chốn nào
ước nguyền đã có gác trăng sao
truyện tâm tình dưới hoa thiên lý
còn lối bâng khuâng ngõ trúc đào

Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ
nắng trong hoa với gió bên hồ
dành riêng em đấy khi tình tự
ta sẽ đi về những cảnh xưa

Rồi buổi ưu sầu em với tôi
nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời
vai kề một mái thơ phong nguyệt
hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười

(1) bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc với tiêu đề “Mộng Dưới Hoa”
DẠ HỘI

Đèn quanh thuỷ tạ, hội đêm hè
Em đến phương nào? Đây ngựa xe
Đây nước hoa chìm giăng ẩn hiện
Thơ phòng khánh tiết nhạc Schubert

Mời các cô em trang điểm vào
má hồng gợn chút mới thanh tao
thuyền thơ anh đợi nghiêng tình tứ
nghìn chiếc hôn bay thoảng phấn Đào

Khiêu vũ đêm nay, Mộng trá hình
Trong vườn quên lãng áo ai xanh?
lòng ai hoá bướm phù tang nhỉ
ta chọn nhầm hoa lẫn ái tình

Tha thiết trời tây gái đẹp về
phương này ta hẹn với Tây Thi
thẹn đâu trinh bạch bàn tay phấn
tuyết nguyệt dài chăng, phải đợi kỳ

Tuổi hạ giăng tròn em vẫn si
lẳng lơ, ai nép mặt hoa quỳ
Phượng liên nàng ấy điên vì mộng
lạc gió thần tiên kịch Shakespeare…
CẶP MẮT NGÀY XƯA

(gửi hương hồn Thạch Lam)

………………….
………………….
Ai biết lòng anh thương nhớ đâu
gần nhau không nói nói không sầu
cầm tay hỏi mộng buồn như tủi
thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu

Tôi cảm thương vì hai chúng ta
tuổi đang xuân mà bóng sang già
đêm nào tôi mộng buồn riêng gối
anh đã nằm yên dưới mộ hoa

Anh lánh mùa xuân nép cửa sầu
đêm nằm ghê gió lạnh canh thâu.
gặp nhau nắm chặt tay lần cuối
anh khép hàng mi,chẳng nguyện cầu

Tôi đến tìm anh, vuốt mắt hiền
đêm sầu chìm đáy mắt vô biên
vọng thanh nghe rợn hồ cô tịch
tôi hiểu lòng anh chưa toại nguyền

Tôi lạc hồn Xuân giữa Cố Đô
hỏi giăng, giăng mọc nước Tây Hồ
hỏi hoa, hoa vẫn thôn đào liễu
lòng hỏi riêng lòng: Đâu bạn xưa

Trăng nước vô tình, gió đẩy đưa
đời tôi muôn vạn ngả tình cờ
chiêm bao phảng phất tôi thường gặp
cặp mắt anh nhìn như trẻ thơ
XIN HÃY YÊU TÔI

Xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ!
tôi chép thơ ca tụng miệng hoa cười
ôi những nàng như liễu mắt xa xôi!
Yêu tôi nhé, tôi vẫn người mê đắm!
xin hãy yêu tôi những lòng hoa thắm
xuân đã hồng, thu biếc tôi làm thơ
cửa phòng tôi, giăng lưới nhện mong chờ
buồn phơ phất mới trông chiều ngóng gió

…………………….

Em có má hồng dạo lòng qua đó
bởi vô hình không biết đấy mà thôi
trời của tôi mà Thu cũng của tôi
để em tới em làm người khách lạ
miệng kia xinh sao tình lơ đãng quá
tôi không yêu sao có má em hồng?
tôi không buồn sao có mắt em trong?
tôi không mộng sao có lòng em đẹp?
nay đến trước in yêu hồn khép nép
tự trời xanh rơi xuống để gần em
một thờ hoa đính ước gởi thơ kèm
si tình thế mà sao hiu quạnh mãi
yêu tôi với! Tôi làm thơ ân ái
để yêu người và cũng để người yêu
để các em qua từng bước diễm kiều
trong cảnh nước non tình tôi xếp đặt

……………………

Các em dịu dàng sao tàn nhẫn thế
mà lòng tôi hoài vọng cứ đa tình
Hãy yêu tôi vì tôi biết em xinh
Tôi biết khóc để cho Tình cảm động
hãy yêu tôi vì tôi làm nên Mộng
hãy yêu tôi vì tôi dệt nền trời
em đi trong trời mộng đó em ơi
theo áo nhẹ bay cao hồn vũ trụ
xin hãy yêu tôi, những lòng thiếu nữ
một hôm nay Tình ghé bến thu Hồng
tôi khổ rồi em có yêu không?
TIẾC BƯỚM HAY LINH HỒN HOÀI ĐIỆP

Độ em còn trèo cây khế
vịn hái quả xanh bên tường
có phải chúng mình còn bé
cho nên đời rất thơm hương

Vắng vàng năm xưa đã tắt
cô bé ngày xưa đã lớn rồi
hoa hồng vừa nở hé trên môi
và một trời thu trong mắt

Ngày xưa bướm trắng mây vàng
ta sống trong vườn tiên giới
bây giờ lạc xuống trần gian
tôi đi tìm bồng lai mới

Em là tiên nữ diễm kiều
vịn hái hoa trong vườn quí
dò theo những bước thương yêu
còn tôi đi làm thi sĩ

Ngày mai giấc mộng tan vàng
em cứ giữ lòng xuân đẹp
nếu hoa ngày cũ phai hương
đã có linh hồn Hoài Diệp
TAO ĐÀN và NHỮNG GIAI THOẠI QUANH NÓ

Nói đến những hoạt động của thi sĩ Đinh Hùng mà không nói tới ban Tao Đàn, theo tôi đó là một điều thiếu sót lớn. Những hoạt động văn nghệ của ông tại miền Nam, nhất là mấy năm gần đây ngoài việc viết báo, dạy học, đóng kịch…. Phạm vi hoạt động hầu như thu hẹp lại và cũng chỉ có việc chủ trương ban Tao Đàn là đáng kể mà thôi.

Thứ nhất: nó là một hoạt động thuần tuý văn nghệ.
Thứ hai: nó liên tục gần mười năm nay.
Thứ ba: từ đây người ta thấy có khá nhiều điều tiếng xì xầm.

Cho nên những lần tiếp xúc với ông, cũng như với bạn bè, tôi thâu tóm lại ở đây những nhận định chủ quan, dị biệt, cố ghi lại sự thực về thái độ người chủ trương cũng như về bản chất của nó, để độc giả có một ý niệm tương đối chính xác về một món ăn tinh thần mà quí vị ít nhiều đã tiếp nhận.

Từ lâu, thính giả đài Sài Gòn mặc nhiên công nhận sự có mặt của ban Tao Đàn, tiếng nói tổng hợp của nhiều khuynh hướng thi ca.

Có thể nói, quần chúng thuộc mọi giai cấp, mọi thành phần đều đón nghe chương trình này với tất cả tâm hồn say sưa thích thú.

Người ta khó có thể dửng dưng với giọng ngâm thiết tha, ray rứt, nức nở, đau xót hay nghẹn ngào như ru ngủ lòng người nghe của nam nữ nghệ sĩ tham diễn. Với tiếng tiêu huyền hoặc kỳ diệu của Tô Lang và sau này Nguyễn Đình Nghĩa, tất cả đã giao hoà quyện thành một cơn lốc tình cảm, hay một triều sóng bi hùng xoáy buốt vào tâm hồn khách mộ điệu. Nó bốc cao, bay trải vào từng thớ thịt, thức dậy nơi người nghe ít nhiều bùi ngùi hoài cảm, cái cảm giác đắm chìm trong một không gian thanh thoát bay bổng, chới với.

Sự thoải mái tinh thần này đã giúp ta quên lãng trong chốc lát những đau nhục, những khốn khó của kiếp người, những âu lo phiền tủi vì miếng cơm manh áo… Ban Tao Đàn được thành lập từ năm 1955, do Đinh Hùng đứng tên, cùng sự góp sức của Thanh Nam, Thái Thuỷ, Tô Kiều Ngân. Buổi phát thanh ra mắt nhằm ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, có mặt của các giọng ngâm. Nam: Tô Kiều Ngân, Hoàng Thư; Nữ: Giáng Hương, Mộng Hoàn, Bích Hiền. Phần nhạc phụ hoạ có các nhạc sĩ Ngọc Bích, Phạm Đình Chương, Vĩnh Phan. Riêng Vĩnh Phan xử dụng đàn thập lục, đệm cho phần cổ thi, tiếng sáo Tô Lang.

Một hai năm sau, Tao Đàn đã giới thiệu với thính giả hâm mộ một số giọng ngâm mới như HỒ Điệp, Bích Liễu, Lệ Liễu; sau nữa có Quách Đàm, Thái Hằng. Qua một thời gian thử thách, những giọng ngâm không bản sắc, đã bị đào thải như… ngược lại cũng có hai khuôn dáng nổi bật đó là Hồ Điệp và Quách Đàm.

Gần đây, người ta lại thấy xuất hiện trên ban này vài giọng ngâm trẻ, nhưng cũng đã dựng tạo được một vóc dáng khó chìm lẫn, khả dĩ có thể thay thế các bậc cao niên trong tương lai. Tôi muốn nhắc tới Hoàng Oanh, Quang Minh.

*

Trở lại, khi ban thi ca vô tuyến này đang được trớn vươn mạnh trên đường phục vụ quần chúng, thì một vài đổ vỡ đáng tiếc xảy ra.

Số là nhà văn Tô Kiều Ngân, trung uý, không hiểu vì lý do nào, lặng lẽ, rút lui cùng với Thanh Nam.

Khi ông Lê Văn Duyên được cử giữ chức giám đốc nha vô tuyến, người ta thấy Tô Kiều Ngân ngồi ghế chánh sự vụ sở chương trình. Đồng thời ban Tao Đàn đang từ ba buổi mỗi tuần được rút dần xuống còn hai, rồi một. Song song với sự kiện này trên đài, một ban thi văn khác được thành lập do Thanh Nam, Mai Thảo, đứng tên, đó là ban Tin Thơ. Tuy thế, ông cho biết mỗi khi giới thiệu tên những người phụ trách. Ông vẫn kể Tô Kiều Ngân, Thanh Nam, Thái Thuỷ, cho tới khi mấy người này yêu cầu bỏ tên họ ra. Vậy, phải chăng đã có một sự ngộ nhận giữa nhà văn họ Tô và thi sĩ họ Đinh. Cũng có thể trong vụ này còn nhiều uẩn khúc khác nữa! Nhưng điều đó chỉ có hai ông biết với nhau mà thôi. Dầu sao, sự xuất hiện thêm ban Tin Thơ, cũng đã gây cho người ngoại cuộc ít cảm nghĩ không đẹp.

Sau hai tháng ngồi ghế chánh sự vụ, Tô Kiều Ngân lại trở về với nhiệm vụ cũ khi giám đốc Duyên bị thay thế bởi ông Thái Văn Kiểm! Ban Tin Thơ do đó cũng bị khai tử.

Nhân cơ hội ngàn vàng này, Đinh Hùng đem vụ Tao Đàn ra trình bày với ông Kiểm, và ông này bảo hãy làm đơn theo thủ tục, ông ta sẽ căn cứ vào đó, cho xếp lại chương trình.

Nhưng mọi việc chưa ngã ngũ thì ông Kiểm đã bị thay bởi ông Nguyễn Ngọc Linh. Một lần nữa đường hướng hoạt động lại đổi khác. Vấn đề ban Tao Đàn coi như được cất kỹ… Chính bởi sự thay đổi luôn luôn, cũng như đường lối phải tuỳ thuộc vào thời thế, quốc sự, nên ý định ban đầu của ông là đặt các vấn đề đường hướng thi ca không thực hiện được và ông còn cho biết thêm rằng ngay cả việc cho trình bày những thi phẩm cũng gặp rất nhiều trở ngại, ông muốn nói tính cách nghệ thuật văn chương không được chú trọng bằng tính cách thời thế!

Cuối cùng, phạm vi chỉ còn thu hẹp trong khuôn khổ ngâm nga, nhận định đơn lẻ về một vài thi phẩm, một vài nhà thơ v.v… Thỉnh thoảng ông cũng chọn ngâm dăm ba bài thơ cổ hoặc tiền chiến do thính giả yêu cầu. Khi ban Tao Đàn có sáng kiến giới thiệu những nhà thơ mới cùng tác phẩm của họ, ông đã bị rất nhiều tai tiếng.

Những điều tiếng mà người ta đã gán cho Đinh Hùng, tôi nghĩ điều đó không hẳn là không có căn cứ, mấu chốt. Bởi có những thi phẩm nhiều khi không có giá trị nghệ thuật, nhưng ông vì nể bạn mà đưa lên…

Đây là một điều rất khó khăn đối với một người nhiều tình cảm như Đinh Hùng. Tuy nhiên tôi tin rằng ông sẽ vượt qua được vì ông đã từng nói với tôi: “Chỉ cần một người hiểu cũng đủ bù đắp, lấp đầy những điều tiếng ghen ghét, tỵ hiềm của trăm nghìn kẻ khác!”

Sự trình bày những gì quanh ban Tao Đàn, không có nghĩa là tôi có ý che lấp hoặc làm sút giảm, phủ nhận công lao của ông trong việc triển khai, thông đường dọn lối cho quần chúng tìm đến, lại gần với thi ca, với nguồn dân tộc. Tôi không quên nghĩ tới công lao của ông trong việc làm sống động sinh hoạt thi ca, phổ biến rộng rãi tới lớp quần chúng thiếu phương tiện, thiếu hoàn cảnh thưởng thức món ăn tinh thần thanh tao này.

Giữa một kỷ nguyên cơ khí, chiến tranh điêu tàn giữa khi những giá trị thiêng liêng ngày càng bị rẻ rúng mất giá, giữa khi mãnh lực kim tiền nhu cầu vật chất càng ngày càng tiến tới gần địa vị độc tôn, sự có mặt của ban Tao Đàn (cũng như một hai ban khác) trên đài phát thanh quả là cần thiết. Nó sẽ hữu ích hơn nữa khi người chủ trương nó tức thi sĩ Đinh Hùng gạt bỏ được những phù phiếm, hào nhoáng, những thiên tư còn đang vây bủa ít nhiều nơi ông. Tôi chắc, với một tình cảm sẵn có từ Mê hồn ca, anh em văn nghệ cũng như quần chúng sẽ nghĩ về ông đẹp hơn trong một khuôn dáng tròn đầy, một gương mặt linh hồn khả ái hơn.

THƠ ĐINH HÙNG

Nói đến Đinh Hùng, người ta thường nghĩ ngay tới Mê hồn ca, tác phẩm đầu tay của thi sĩ do nhà xuất bản Tiếng Phương Đông của Hồ Dzếnh ấn hành tại Hà Nội năm 1954.

Tập thơ chia làm 4 tiểu mục:
1. Nguyên thuỷ
2. Chiêu niệm
3. Thần tượng
4. Mê hồn

Với những tiêu đề này, tác giả đã cho người đọc một ý niệm khái quát về vũ trụ thi ca mang tên ông.

Đọc xong tập thơ, gấp lại, trong tôi một khoảng trống lớn dần, lớn mãi lên cùng nỗi buồn nhè nhẹ nhưng thấm thía. Không biết tại sao tôi buồn? Cũng không một hình ảnh, một cảnh sắc nào còn in dấu hình như tất cả đã tan đi, loãng ra theo dòng thơ xuồng xiết trôi vè một trời nào xa vắng, một thiên đường nào mà đôi lần trong vô thức tôi đã mơ tưởng, đã phác dựng. Cùng một lúc, gợi nhớ tới Xuân Diệu, tới Chế Lan Viên, tới Huy Cận, tới Thế Lữ, tới Hồ Dzếnh… Tới những khuôn mặt tiền chiến đã hơn một lần soi đậm vóc dáng trong vòm trời văn học nghệ thuật Việt Nam…, tới khung cảnh lịch sử thủa Hà Nội 1940-1944.., tới những ca lâu, những tửu điếm, cuối cùng tới Đinh Hùng trong một cốt cách lãng tử cô đơn, lăn vào cuộc sống âm vang tiếng sênh, tiếng phách, của những đêm hoan lạc suốt sáng để quên, để quên thân phận tôi mọi trâu chó của một kẻ mất nước của một tên nô lệ sống trên đất nước mình mà mang tâm thức của một kẻ lạ mặt, một ngoại nhân sống giữa quê người.

Giữa trạng huống đau thương đó, một Vũ Hoàng Chương tìm quên trong Say, một Chế Lan Viên khóc vay thương mướn một dân tộc đã diệt chủng, một Xuân Diện ẩn trốn vào thế giới ái tình tuổi trẻ hưởng thụ vội vàng. Đinh Hùng cũng dựng tạo cho mình một cõi trú, một thế giới khả dĩ dung nạp được tâm hồn đam mê cuồng nhiệt. Thế giới đó là thế giới thủa sơ khai, thủa những bon chen, những trì kéo của kiếp người chưa trở thành những đòi hỏi, những định luật căn bản thiết yếu.

Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản
Mất tinh thần từ những thuở xa xôi
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi
Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống

……………………………………

Giữa hoang loạn của lâu đài tình tạ
Ta thản nhiên khi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng
(Bài ca man rợ)
Thế giới thi ca của Đinh Hùng là một thế giới lạ kỳ mang đầy bản chất sơ khai man rợ, có người cho ông thuộc phái tượng trưng hay siêu thực. Nhưng theo tôi thì dù siêu thực, tượng trưng hay gì chăng nữa, Đinh Hùng vẫn là Đinh Hùng với một khoảng trời riêng bi thảm bọc vây cố hữu. Một khung trời hư ảo với những xung động dị kỳ.

Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
ta nằm trên cỏ lắng tai nghe
thèm ăn một chút hoa man dại
rồi ngủ như loài muôn thú kia
Với cố thi sĩ Hàn Mạc Tử khi sinh thời, cũng có những khát đói thần bí huyền hoặc đó. Nhưng người ta còn có thể giải thích một cách thoả đáng bởi căn bệnh nan y: cùi, mà nhà thơ này vương mắc. Với Đinh Hùng, tìm một giải đáp quả có phần khó khăn hơn. Người thì cho rằng vì ông muốn trở về đời sống sơ khai, thuở con người còn ăn hoa, ăn cỏ, còn sống hồn nhiên như cầm thú, sống theo bản năng tự nhiên. Người khác lại cho rằng thế giới không tưởng vượt xa, cao trên cuộc sống trần tục thường phàm; giữa không khí hôn mê, u trầm đó, nhà thơ đã hoà tan tâm hồn, quên đi thể xác để hiện nguyên hình hài trong cõi mộng, do đó trong những giây phút xuất thần thi nhân thường mơ hồ trực cảm một đói khát, một chùm hoa, một chút lá…

(1) Trời hỡi làm sao khi đói khát
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
(Thơ H.M.T)
Sự thực không phải như thế, bởi ngoài một khát vọng khác thường bộc lộ trong giòng thơ tha thiết, thế giới của Đinh Hùng vẫn là thế giới của tình yêu, của mộng ảo với những xúc động băn khoăn rất người:

ta thường có những buổi sầu ghê gớm
ở bên em ôi biển sắc rừng hương
em lộng lẫy như muôn ngàn hoa sớm
em đến đây như đến tự thiên đường…
Những dằn vặt tình yêu biểu lộ một niềm tha thiết đắm say cao độ:

Ta trong đó thấy trời ta mơ ước
thấy cả bóng một vầng đông thuở trước
cả con đường sao mọc lúc ta đi
cả chiều sương mây phủ lối ta về
khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ
Sự thương nhớ, tương tư trong cõi khôn cùng vi vút khói sương đã chứng tỏ ở cõi sâu kín vùng yên tĩnh tâm hồn thi nhân, một thần tượng đã hình thành, một ảo giác yêu đương luôn luôn nhen dậy, thôi thúc gào thét, một thứ người tình không bay xa, không lý tưởng mơ mộng trên thiên đường cao vắng nào, tôi muốn nói người tình của Đinh Hùng là nàng kỹ nữ, một người con gái xương thịt trong một xã hội thực thể và mang một số kiếp không những tủi hèn, mà còn bị liệt vào thành phần nhơ bẩn rơm rác của xã hội.

Nhưng với thi nhân thì nàng kỹ nữ đó muôn đời vẫn là thần tượng, là lối thoát cho những đam mê dồn nén. Rồi chính từ ngai vị huy hoàng đó, người tình của thi nhân lại quay trở lại, tạo nên một vùng bão tố dìm đắm người phục vị tôn xưng mình với chính những đau thương, những chua xót mà đời đã đem đến cho nàng:

em đài các lòng cũng thoa son phấn
hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ
Nếu đạo giáo là cõi trú thích ứng nhất của những tâm hồn yếu đuối, của những linh hồn đã quá ê chề thất vọng, là con đường giải thoát siêu hình cần thiết cho tất cả những ai đã hơn một lần đánh mất niềm tin, sa lầy tội lỗi, thì với Đinh Hùng, ta có thể coi như tôn giáo của ông là thứ tôn giáo ái tình hay nói khác đi ông chủ trương một thứ đạo gọi là ‘đạo ái tình”. Một thứ đạo của hầu hết những kẻ sinh ra trót mang trong hơi thở, trong mạch máu “nòi tình”. Như vậy chúng ta sẽ không mấy ngạc nhiên khi thấy tiếng thơ của thi nhân là tiếng gọi kêu van cầu ân ái, là những tiếng than van, là những giận hờn oán trách người tình phụ bạc.

ta đã muốn trở nên người vô đạo
tất cả em đều bắt ta trở nên khổ não
và oán hờn căm giận tới đau thương
và yêu say mê mệt tới hung cuồng
và khát vọng đến vô tình vô giác
Vị thi nhân chấp nhận tình yêu như một lẽ sống tối thượng để quên, để xa, để lẩn trốn trước thực trạng xã hội ngày một bi đát, ngày một tối đen. Sự tự ru mình vào cõi hôn mê đã đưa linh hồn lênh đênh vào những vòm trời cao rộng với những thương đau khắc khoải không ngờ. Tình yêu, với ý thức thi nhân cần thiết bao nhiêu thì sự đền bồi của nhan sắc, của tượng thần, của giai nhân cũng tàn nhẫn hắt hủi bấy nhiêu. Bởi thi nhân nhìn thấy, thâm cảm được luật tương đối, cùng những hữu hạn, những bất lực của một thân phận làm người không bao giỡ cưỡng lại nổi định mệnh khắt khe tàn bạo, cũng như nước không bao giờ chảy ngược, hoa phải có ngày tàn. Khát vọng dâng tràn như sóng cuồng, như bão loạn mà đời người thì ngắn hạn, phận người thì nhỏ nhoi trước một vũ trụ vô biên, trước một thiên nhiên huyền bí, cho nên ngay trong giây phút đạt tới cực điểm của nồng độ đam mê, đỉnh cùng của khát vọng, thi nhân vẫn linh cảm trước mắt, những đớn đau, điêu tàn những phũ phàng chua chát của một thực tại trùm vây, níu kéo, xô đập:

Niềm khát vọng ta ghi vào huyết sử
dưới chân em thơ lạc mất linh hồn
ta đau xót trong mỗi giờ tình tự
ta khóc nhiều cả những lúc trao hơn
(Ác mộng)
Tôi nghĩ, nếu ai kia bảo Đinh Hùng đã lẩn trốn vào tháp ngà để tìm lấy cho mình những phút giây thần tiên, huy hoàng, rực rỡ, để đắm chìm linh hồn trong niềm hoan lạc hưởng thụ, trốn chạy những đau thương đổ vỡ của cuộc đời thì e có phần thiên lệch, bất công. Bởi, nếu chúng ta cảm thông được tiếng thơ của một Chế Lan Viên qua “Điêu tàn” – một khoảng trời thâm u, thê thảm, một huyệt mộ vùi sâu cơ đồ của cả một dân tộc – ai dám bảo Chế Lan Viên lánh xa sự thực bi đát phũ phàng để tìm về cõi mộng hầu thoả mãn nhưng khát thèm êm ái, ve vuốt tâm hồn – trái lại, Chế Lan Viên đã đau khổ gấp trăm ngàn lần cái đau khổ mà thường nhân phải gánh chịu, trong thực thể xã hội đương thời, cũng vậy, Đinh Hùng lẩn trốn thực trạng đau thương của thời thế bằng cách trầm mình trong thiên đường tình ái, nhưng chính tại cõi trú thanh sắc này, nhà thơ đã đau khổ thêm một lần nữa. Thế giới phấn hương, hoa bướm không những đã không giúp nhà thơ quên bớt, rời xa những dằn vặt, vò xé mà còn tạo thêm hoàn cảnh để thi nhân nhìn rõ đau thương, đày đoạ – Tôi muốn nói ở mảnh đất đắm đuối truy hoan này, Đinh Hùng càng thấu cảm cái mệnh số cô đơn, cái mình lạc lõng, xa lạ hoang liêu hơn bao giờ.

ôi giữa trời thơ, những đêm hiền hậu
con chim nào kêu vang tiếng trần ai
mấy thu xanh hờn thác lẻ u hoài
thời xa vắng mờ hương lòng trái đất
trong tay nàng ta ngả mình ngây ngất
nghe rõ ràng trên thịt ấm da xuân
ngực dâng cao hơi thở đã mau dần
mùi cỏ lá bỗng thoảng hồn thương nhớ
ta ngẩng lên mặt nàng buồn muôn thuở
ngắm hoa sao lay động dưới khe nguồn
chung mối sầu thơ thẩn với trăng suông
bên sườn núi có con hươu vàng điệp
Loay hoay lặn ngụp trong mối sầu cao ngút, trong khát vọng vô biên khôn đường giải thoát, nhà thơ quay ra thương tiếc vẩn vơ, than trách số mệnh; nhưng từ bước chân vô vọng rạc rời trong thế giới tình yêu, ông lại tạo dựng cho mình một niềm tin mới, một cõi ẩn trú mới, đó là thế giới huyền bí, thế giới linh thiêng của những hồn oan thác, của những hoang sơ điêu tàn từ vạn kỷ:

quên tình ái ta phá tan cung điện
đi ngoài sao thầm lặng khóc trời xanh
xa mắt em xa ánh sáng kinh thành
Chia tay người tình ở đây không có nghĩa là ông đã rời bỏ được những khao khát, những đam mê tình ái, những hương phấn yêu đương mà để tìm về với một tâm hồn siêu thoát của cõi tâm linh vô thức – dĩ nhiên tâm hồn người được thi nhân trao gửi tình yêu, trao gửi thân xác đã dãy đầy đau thương, đã rách nát ân tình, là một linh hồn tố nữ, một mỹ nhân, một hương sắc u trầm thanh khiết trinh băng:

em mộng về đâu?
em mất về đâu?
từng đêm tôi nguyện tôi cầu
đây màu hương khó là mầu mắt xưa
em đã về chưa?
em sắp về chưa?
trăng sao tắt ngọn đèn mờ
ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn
(Gửi người dưới mộ)
Tới đây, tiếng thơ của thi nhân có phần mong manh, nhẹ nhàng thanh thản hơn, nó không còn là âm hưởng của những cuồng vọng đắm say, điên cuồng. Nó cũng không còn là những giận hờn, những trách móc, oán than của mặc cảm bị ruồng rẫy phản bội nữa. Mà là những lời tâm sự ngỏ bày, những kể lể, những cầu xin biểu lộ một lòng thành thiết ngưỡng mộ, vời trông:

Hỡi hồn tuyết trinh
Hỡi người tuyết trinh
Mê em ta đã thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm
(Gởi người dưới mộ)
Nếu thơ là tiếng nói của đam mê cùng cực thì quả thi sĩ Đinh Hùng đã đạt được tới nguồn cội tiếng thơ. Suốt thi tập, với 40 bài là những bản ngợi ca tình yêu cuồng nhiệt, là những điệp khúc của lòng đắm đuối cao độ, của một tâm hồn lạc lõng bơ vơ giữa chợ người, muốn tìm về núi rừng, muốn tìm về nguyên thuỷ, nguyên khai. Ngay cả với những đam mê không tưởng về một thế giới hư vô thần kỳ, người ta cũng bắt gặp một Đinh Hùng thật tha thiết, thật mê man trong một vóc dáng thật độc đáo của một vũ trụ hoang dại, rừng rú. Trong thế giới mê hoặc, mờ ảo của một ý thức sáng suốt trộn lẫn cùng những trực cảm, những ảo giác thần kỳ của một kiếp nào đã qua đi, đã vắng tạnh trong xã hội xáo động, đầy âu lo thắc mắc trước một viên tượng rạn nứt bế tắc của thân kiếp, của những thúc bách nhân sinh, thi nhân vẫn còn gìn giữ riêng cho mình một niềm tin, một nguồn sáng soi rực tâm thức.

Trận cười tan hợp núi sông
Cơn mê kỳ thú lạ lùng cỏ hoa
Hý trường đổi lớp phong ba
Mượn tay nguỵ tạo xoá nhoà biển dâu
Với niềm tin tưởng mãnh liệt đó, thi sĩ đi từ cuộc sống phồn tạp tới cõi siêu thoát, bằng những bước chân kiêu ngạo, khinh bạc, cái kiêu bạc tất nhiên của một kẻ tự tách rời đời sống hiện tại đầy bon chen, đầy tham vọng thấp hèn, với một ý thức tỉnh táo, một khát vọng cao cả trông hướng về một xã hội hồi nguyên thuỷ, một xã hội – tự tính để nhìn thấy tâm hồn, nhìn thấy chân dung đích thực của ý nghĩa đời sống con người. Sự vươn lên, tự dựng tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới cách biệt ngoài tầm trí tưởng đại chúng đã đưa thi nhân tới mặc thức cô đơn ghê lạnh; vì trên viễn trình về tới thiên đường, về tới nguồn cội, thi sĩ là người duy nhất – kể độc hành không cả một ánh mắt vời theo.

Cuối thời loạn thương một vùng sao mọc
ta bước lên chân nhịp bước thần kỳ
trở về đây xơ xác mảnh tàn y
giữa hoang địa hiện hồn toà u ngục
bừng mắt dậy lửa hồi sinh đỏ rực
thịt xương về trong cổ mộ xôn xao
hoả thiêu rồi làn tử khí lên cao
chiều tái tạo bâng khuâng từng ngọn cỏ
hoa thanh quý nở bừng trang diễm sử
thiên tiên đâu về tắm bến sông đào
ta nghiêng mình làm một trái non cao
(Mê hồn ca)
trăng bỏ ta đi trăng ảo huyền
mấy trùng biển lạ nhớ bình nguyên
sầu ta đong khắp trường giang thuỷ
vào cuộc tuần du lại đắm thuyền
ta hát lên trời muôn thuở trước
giờ đây còn lắng khúc giao duyên
thân lưu lạc về sông núi
ngươi gọi hồn ai hỡi đỗ quyên
Từ đó, niềm kiêu hãnh khinh bạc cuộc đời của thi nhân đã đưa thi nhân xa dần, xa dần… để gần thêm, gần thêm mãi cô đơn và cuối cùng cô đơn không còn là một màn lưới bủa vây bên ngoài nữa, mà chính tâm hồn thi nhân là những hình ảnh của cô đơn hiu quạnh đó:

đi vào mộng những sơn thần yên ngủ
em! kìa em! đừng gọi thức hư vô
hãy quỳ xuống, đọc bài kinh ái mộ:
hồn ta đây thành tượng giữa vô cùng.
(Trời ảo diệu)
Thế giới thi ca Đinh Hùng là một thế giới thần kỳ mang đầy bản sắc man rợ, rừng rú. Phải chăng, thi sĩ muốn quay về, muốn dựng lại xã hội tự tính tức một xã hội bộ lạc thuở sơ khai, con người sống thuần với bản tính tự nhiên, không với lý trí, với thủ đoạn, với những suy tính, những dục vọng đê hèn, thấp kém của xã hội mang tiếng văn minh tiến bộ nhưng lại là thứ văn minh vật chất, văn minh kỹ thuật, càng văn minh, càng khôn ngoan bao nhiêu, cuộc sống càng bẩn thấp bấy nhiêu.

Bàn về kỹ thuật vận dụng ngôn từ hình ảnh, có người đã cho rằng ông là một “phù thuỷ ngôn ngữ” – vì sự khéo lựa chọn những ngôn từ, ảnh hình, âm điệu. Nhưng chính sự kiện này cũng khiến cho một số người khác đã không ngần ngại gọi ông là thợ “ghép vần sắp chữ”. Theo tôi, đấy là một nhận xét quá thiên lệch, quá chủ quan đối với một thi sĩ dù muốn dù không cũng đã được đời chấp nhận từ hơn hai mươi năm nay. Hơn nữa, giá trị thi ca bao giờ cũng được định xét bởi độ lượng thành khẩn, thiết tha chân thực của người sáng tạo – tức cường lực rung cảm truyền thấm của tiếng thơ đối với người đọc. Mà ở đây Mê hồn ca là tiếng nói phản ảnh trung thực những đam mê đắm đuối của một tâm hồn chứa chan khát vọng yêu thương, một tâm hồn nhậy cảm với những xung động mặc nhiên, những dầy vò đay nghiến của đời người khốn đốn, của tình người nghiêng ngửa mong manh, tráo trở…

Hãy thử nghĩ, nếu vườn hoa thi ca Việt Nam thiếu vắng một Đinh Hùng, thiếu vắng một Mê hồn ca sẽ là một trong những thiệt thòi của chúng ta…

Tuy nhiên, tiếng thơ họ Đinh cũng không thoát tránh được một vài sơ suất, yếu kém, một vài vội vàng thiếu đắn đo cân nhắc. Sự dễ dài buông thả này, đã đưa tiếng thơ ông, thỉnh thoảng rơi vào những khuôn sáo rỗng trống, những ảnh hình, những ý tứ giả tạo, vô nghĩa:

niềm thương ý nhạc mùa xa tắp
bãi bề cồn dâu nổi bấy chầy
thôi nhé mười lăm năm xí xoá
lầu thơ trăng gió lại thơ ngây
hoặc:

thế kỷ thanh bình nức nở hoa
ta nhìn hoa khóc tuổi trăng già
buồn lên, cõi đất chưa than thở
em đã cao sầu ơi Du Hoa
(Hoa sử)
Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc về thái độ thẩm xét giá trị một tác phẩm văn chương, có nhiều người đã vô tình hoặc cố ý nhắm vào một vài sơ suất, một vài thiếu kém của toàn tập rồi từ đó họ phê phán và rút ra một kết luận. Việc làm thiếu ý thức, vô trách nhiệm này thật không thể nào chấp nhận.

Cho nên, khi nhắc tới một vài khiếm khuyết của tiếng thơ Đinh Hùng, không có nghĩa là tôi đã tự mâu thuẫn với tôi ở những trang trên. Và không phải tại những câu tôi trích dẫn ở đây mà giá trị đặc biệt của ông không còn hay sút giảm – có hay không có khuyết điểm, Mê hồn ca vẫn là Mê hồn ca với một ngôi vị xứng đáng đặc biệt trong vườn hoa nghệ thuật hậu chiến. Mê hồn ca vẫn là Mê hồn ca, một đoá hương sắc mà với thời gian vẫn không tàn phai – và vóc dáng người sáng tạo nó với niềm khẩn thiết chân thành vẫn còn bao trùm một khoảng trời vũ trụ thi ca bao la, hay ở đáy sâu vùng yên tĩnh tâm hồn người yêu thơ vẫn còn dành cho Đinh Hùng ít nhiều mến mộ.

Với những thi bản như Kỳ nữ, Mái tóc dạ hương, Mộng dưới hoa, Xin hãy yêu tôi, Mê hồn ca một ngày kia, nếu người lãng tử tài hoa đơn côi có rời bỏ cuộc đời tục luỵ này, tôi nghĩ những tiếng thơ đó vẫn còn vang vọng mãi tới muôn sau…

Cảm nghĩ cuối cùng tôi trước khi tạm rời vùng giông bão tình yêu Đinh Hùng, là niềm trắc ẩn về một loài hoa cô đơn, mọc chênh vênh ven triền núi thẳm, mà hương sắc là những kết tụ những gồm thâu của trăm nghìn loài dã thảo từ tiền kiếp xa xôi để hôm qua ngày mai hương sắc trầm kín kiêu sa ấy, còn tồn tại, còn mang mang trong đời, vi vu trong hồn người.


1964

Chú thích:
(1) Báo chí Việt Nam cũng có đăng tải lại, với hai nguồn dư luận. Một công nhận DOUBÉ là thần đồng. Hai thì phủ nhận vì cho rằng đó là sản phẩm cùa bà vú nuôi Drouet.
(2) Xin đừng nhầm với Nguyễn Đức Chính làm chính trị. NĐC là tác giả những tập truyện: Đứa con chờ đợi, Đứa con nhà nghèo.
(3)“… Kẻ này không muốn nghĩ về Đinh Hùng, lại thấy anh em thẳng tay “đập” Đinh Hùng, kẻ này lại thương hại, cái tình thương thật sự đó khiến kẻ này phải hành động… bằng cách gởi cho Đinh Hùng hai tập thơ: Thơ Trần Tuấn KiệtNai với những giòng đề thân mật là “Mến mộ Đinh Hùng” (nhớ là hai tập thơ gởi tặng sau khi tạp chí Phổ thông có bài của Nguyên Vỹ giới thiệu tập thơ Nai, trong đó có trích một câu nói ác ôn về kẻ này: Nó không phải là thi sĩ.
Với hành động đó, Đinh Hùng đã nghĩ sao khi mà thẳng tay xuyên tạc hai tập thơ của kẻ này?... Còn về trường hợp Đinh Hùng, chúng tôi có những ý nghĩ sau đây: - Đài phát thanh còn dành mục Tao Đàn cho Đinh Hùng ngày nào, thì đài đã gián tiếp chịu trách nhiệm để cho một kẻ phá hoại văn học đó tàn phá thi ca nghệ thuật ở miền Nam này, cũng như chín mươi năm nay Đinh Hùng đã cố dìm và ngăn bước đi dũng mãnh của những người làm thơ vậy”.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook