過珥河觀北兵古壘

殺氣衝開萬灶煙,
惟餘畤疊珥河邊。
再榮草木曛殘照,
一度杆戈直倒懸。
五嶺歸魂應萬里,
章陽往事已千年。
解知興計羞川岳,
早向西山送賀箋。

 

Quá Nhĩ hà quan Bắc binh cổ luỹ

Sát khí xung khai vạn táo yên,
Duy dư trĩ điệp Nhĩ hà biên.
Tái vinh thảo mộc huân tàn chiếu,
Nhất độ can qua trực đảo huyền.
Ngũ Lĩnh quy hồn ưng vạn lý,
Chương Dương vãng sự dĩ thiên niên.
Giải tri hưng kế tu xuyên nhạc,
Tảo hướng Tây Sơn tống hạ tiên.

 

Dịch nghĩa

Khói từ muôn bếp xông lên sát khí,
Giờ còn trơ lại những mảnh luỹ bên sông Nhĩ.
Cỏ cây lại tươi tốt dưới nắng chiều ấm áp,
Gươm giáo một thời làm cho nhân dân khốn khổ cùng cực.
Hồn giặc bay về Ngũ Lĩnh hàng vạn dặm,
Chuyện cũ Chương Dương đã ngàn năm rồi.
Nếu biết việc “giúp Lê” thành xấu hổ với núi sông.
Thì đã sớm gửi thư chúc mừng đến nhà Tây Sơn.


Năm 1790, một sứ bộ của nhà Tây Sơn được cử sang Bắc Kinh để nối lại quan hệ bang giao với triều Thanh, trong đó có Đoàn Nguyễn Tuấn. Khi qua sông Nhĩ (tức sông Hồng), nhìn cảnh đồn trại quân Thanh đổ nát sau trận chiến năm Kỷ Dậu 1789, Đoàn Nguyễn Tuấn đã viết bài thơ này.

Nguồn: Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (Hải Ông thi tập), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Sát khí xông từ vạn bếp lên,
Chỉ còn luỹ đất đứng trơ ven.
Cỏ cây chiều xế tươi màu cũ,
Gươm giáo bao người khốn một phen.
Ngũ Lĩnh hồn về xa vạn dặm,
Chương Dương chuyện cũ thoắt ngàn năm.
Nếu còn tủi thẹn cùng sông núi,
Mau hướng Tây Sơn gửi ngợi khen.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Khói từ muôn bếp khí xung lên,
Sông Nhĩ còn trơ mảnh luỹ bên.
Tươi tốt cỏ cây chiều nắng ấm,
Dân đen gươm giáo khốn bao phen.
Hồn về Ngũ Lĩnh hàng ngàn dặm,
Chuyện cũ Chương Dương đã vạn niên.
Nếu biết “phò Lê” thành tủi hổ.
Tây Sơn nếu giúp được ca khen.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Thiều

Sát khí xông lên từ vạn bếp,
Nay trơ luỹ đổ ở bên sông.
Cỏ cây sống lại hương thơm ngát,
Binh lửa gây nên khổ mấy trùng.
Ngũ Lĩnh hồn về khôn cất cánh,
Chương Dương chuyện cũ mãi ghi công.
“Hưng Lê” nếu biết non sông thẹn,
Thà gửi Tây Sơn lá thiếp hồng!


Nguồn: Cao Tự Thanh, Việt Nam bách gia thi, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2005
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Minh Sơn Lê

Khói từ muôn bếp toả hung
Nhị hà trơ lại mấy khung luỹ thành
Tà huy tràn ấm cây xanh
Giáo gươm một thuở lương dân khốn cùng
Hồn về Ngũ Lĩnh muôn trùng
Chương Dương chuyện cũ qua vùng ngàn năm
“Phò Lê” nếu biết kế lầm
Chúc thư tốc gửi mừng thầm Tây Sơn

Chưa có đánh giá nào
Trả lời