
歲暮
歲暮遠為客,
邊隅還用兵。
煙塵犯雪嶺,
鼓角動江城。
天地日流血,
朝廷誰請纓。
濟時敢愛死,
寂寞壯心驚。
Tuế mộ
Tuế mộ viễn vi khách,
Biên ngung hoàn dụng binh.
Yên trần phạm ,
Cổ giốc động .
Thiên địa nhật lưu huyết,
Triều đình thuỳ .
Tế thì cảm ái tử,
Tịch mịch tráng tâm kinh.
Dịch nghĩa
Cuối năm rồi mình vẫn là khách nơi xa,
Thành nơi biên giới này vẫn còn lâm vào cảnh chiến tranh.
Khói bụi tràn tới vùng núi Tuyết lĩnh,
Tiếng trống trận lẫn tù và vang dậy nơi Giang thành.
Trời đất máu chảy hàng ngày,
Ở triều đình ai xin vua ban giải mũ để ra trói quân thù?
Lúc cần cấp này dám không sợ chết,
Cứ ngại cái lòng của thân trai bị hao mòn thôi.
歲暮
Tuế mộ
Cuối năm
歲暮遠為客,
Tuế mộ viễn vi khách,
Cuối năm rồi mình vẫn là khách nơi xa,
邊隅還用兵。
Biên ngung hoàn dụng binh.
Thành nơi biên giới này vẫn còn lâm vào cảnh chiến tranh.
煙塵犯雪嶺,
Yên trần phạm ,
Khói bụi tràn tới vùng núi Tuyết lĩnh,
鼓角動江城。
Cổ giốc động .
Tiếng trống trận lẫn tù và vang dậy nơi Giang thành.
天地日流血,
Thiên địa nhật lưu huyết,
Trời đất máu chảy hàng ngày,
朝廷誰請纓。
Triều đình thuỳ .
Ở triều đình ai xin vua ban giải mũ để ra trói quân thù?
濟時敢愛死,
Tế thì cảm ái tử,
Lúc cần cấp này dám không sợ chết,
寂寞壯心驚。
Tịch mịch tráng tâm kinh.
Cứ ngại cái lòng của thân trai bị hao mòn thôi.
Cuối năm mòn thân khách,
Ngoài biên giặc chửa ngừng.
Bụi mù xông núi tuyết,
Trống ốc dậy thành sông.
Trời đất ngày thâm máu,
Triều đình ai ấy trung?
Cứu đời dám chịu chết,
Sốt ruột phải ngồi không.
Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn học, 1962
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Cuối năm vẫn thân khách,
Thành biên giặc rối tung.
Tuyết lĩnh đầy khói bụi,
Giang thành chiêng trống rung.
Hàng ngày máu chảy khắp,
Triều đình ai xung phong.
Lúc cần đâu sợ chết,
Những ngại nhụt khí hùng.
tửu tận tình do tại
Cuối năm rồi thân còn đất khách
Ngoài biên thuỳ lách cách binh đao
Núi băng khói bụi tràn vào
Tù- và trống trận xôn xao giang thành
Trời đất thoảng máu tanh chinh chiến
Nơi triều đình ai hiến mưu cao
Cứu nguy cảm tử anh hào
Không ai kêu gọi chàng nào không e.