
敕勒歌
敕勒川,
陰山下,
天似穹廬,
籠蓋四野。
天蒼蒼,
野茫茫,
風吹草低見牛羊。
Sắc Lặc ca
Sắc Lặc xuyên,
hạ,
Thiên tự khung lư,
Lung cái tứ dã.
Thiên thương thương,
Dã mang mang,
Phong xuy thảo đê kiến ngưu dương.
Dịch nghĩa
Bình nguyên của người Sắc Lặc,
Dưới núi Âm Sơn,
Trời như chiếc lều,
Bao trùm lên bốn nội.
Trời xanh xanh,
Nội mênh mông,
Gió thổi cỏ rạp xuống, hiện ra bò dê.
敕勒歌
Sắc Lặc ca
Bài ca Sắc Lặc
敕勒川,
Sắc Lặc xuyên,
Bình nguyên của người Sắc Lặc,
陰山下,
Âm Sơn hạ,
Dưới núi Âm Sơn,
天似穹廬,
Thiên tự khung lư,
Trời như chiếc lều,
籠蓋四野。
Lung cái tứ dã.
Bao trùm lên bốn nội.
天蒼蒼,
Thiên thương thương,
Trời xanh xanh,
野茫茫,
Dã mang mang,
Nội mênh mông,
風吹草低見牛羊。
Phong xuy thảo đê kiến ngưu dương.
Gió thổi cỏ rạp xuống, hiện ra bò dê.
Bài ca này được chép trong
Nhạc phủ thi tập, phần
Tạp ca dao từ. Ngoài bài này còn có bài của Ôn Đình Quân phóng tác với cùng đề mục.
Đây vốn là một bài dân ca của tộc Sắc Lặc người Tiên Ty ở phương bắc thời Nam Bắc triều, được dịch từ tiếng Tiên Ty. Tộc Sắc Lặc thời Bắc Tề, Bắc Nguỵ sinh sống ở bình nguyên Hà Sáo tới Đại Mặc, nay ở phía bắc tỉnh Sơn Tây và Nội Mông. Bài ca miêu tả sinh hoạt của người dân du mục gần gũi với thiên nhiên với phong cảnh thảo nguyên tráng lệ, lời lẽ khảng khái, mang đậm tính hào sảng đặc trưng của dân ca phương bắc.
Nếu như bài
Việt nhân ca 越人歌 là bài thơ dịch sớm nhất còn ghi chép được, thì đây là bài ca dịch được khen ngợi nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nguyên Hiếu Vấn có bài
Luận thi (kỳ 7) đánh giá cao bài ca này: “Khảng khái ca dao tuyệt bất truyền, Khung lư nhất khúc bản thiên nhiên” 慷慨歌謠絕不傳,穹廬一曲本天然 (Dân ca khảng khái đã hết, không còn truyền lại nữa, Một khúc lều tranh vốn tự nhiên).