朝回喜賦

書生幾得面君王,
愧我遠來偏近光。
墀下趍蹌陳賀表,
御前揮洒和宸章。
恩綸驚接龍文筆,
朝袖欣沾獸鼎香。
公驛歸來清不寐,
滿窻風月又相將。
欽承賜覲鳳書宣,
晨夕馳驅路十千。
海不波辰知有聖,
山從梯後喜瞻天。
翠花日煖濃春色,
御鼎香浮靄瑞煙。
歌宴侍陪無別頌,
願賡周雅九如篇。

 

Triều hồi hỉ phú

Thư sinh kỷ đắc diện quân vương,
Quí ngã viễn lai thiên cận quang.
Trì hạ xu thương trần hạ biểu,
Ngự tiền huy sái hoạ thần chương.
Ân luân kinh tiếp long văn bút,
Triều tụ hân triêm thú đỉnh hương.
Công dịch qui lai thanh bất mị,
Mãn song phong nguyệt hựu tương tương.
Khâm thừa tứ cận phượng thư tuyên,
Thần tịch trì khu lộ thập thiên.
Hải bất ba thời tri hữu thánh,
Sơn tòng thê hậu hỉ chiêm thiên.
Thuý hoa nhật noãn nùng xuân sắc,
Ngự đỉnh hương phù ái thuỵ yên.
Ca yến thị bồi vô biệt tụng,
Nguyện canh Chu Nhã Cửu Như thiên.

 

Dịch nghĩa

Đã mấy khi kẻ đọc sách được diện kiến quân vương,
Thật thẹn thùng cho người ở xa được gần ánh sáng [thiên tử].
Dưới bệ trang trọng đưa lên tờ biểu trần tình chúc thọ,
Trước mặt nhà vua ta múa bút hoạ bài thơ thần.
Kinh hãi nhận được lời của nhà vua ban cho từ bút có vẽ rồng,
Áo triều còn vương mùi thơm từ chiếc đỉnh hình con thú.
Trở về nhà dịch ta đêm không ngủ được,
Qua cửa sổ đầy gió trăng quyện lấy nhau.
Nhận được phượng thư cho phép lên triều cận,
Không kể ngày đêm bôn ba mười nghìn dặm.
Biển không có sóng nên biết rằng có thánh nhân,
Vượt núi trèo non vui mừng được chiêm ngưỡng thiên tử.
Hoa biếc mặt trời ấm áp mùa xuân nồng nàn,
Đỉnh ngự hương toả ra khói lành mù mịt.
Ca hát yến tiệc hầu vua không còn biết ca tụng gì hơn nữa,
Mong được nối theo các khúc Chu Nhã, Cửu Như.


Năm 1789, Vũ Huy Tấn được cử làm phó sứ sang nhà Thanh mừng sinh nhật vua Càn Long, khi về lại tới Thăng Long là ngày rằm tháng Giêng. Sau khi triều kiến vua Càn Long trở về, ông vui mừng làm bài thơ này tỏ tâm sự của mình.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]