94.44
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Nam Tống, Kim
6 bài trả lời: 6 bản dịch
7 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 18/08/2005 15:49, đã sửa 6 lần, lần cuối bởi Admin vào 27/11/2023 17:11

正氣歌

天地有正氣,
雜然賦流形。
下則為河岳,
上則為日星。
於人曰浩然,
沛乎塞蒼冥。
皇路當清夷,
含和吐明庭。
時窮節乃見,
一一垂丹青。
在齊太史簡,
在晉董狐筆。
在秦張良椎,
在漢蘇武節。
為嚴將軍頭,
為嵇侍中血。
為張睢陽齒,
為顏常山舌。
或為遼東帽,
清操厲冰雪。
或為出師表,
鬼神泣壯烈。
或為渡江楫,
慷慨吞胡羯。
或為擊賊笏,
逆豎頭破裂。
是氣所磅礡,
凜烈萬古存。
當其貫日月,
生死安足論。
地維賴以立,
天柱賴以尊。
三綱實系命,
道義為之根。
嗟予遘陽九,
隸也實不力。
楚囚纓其冠,
傳車送窮北。
鼎鑊甘如飴,
求之不可得。
陰房闃鬼火,
春院閟天黑。
牛驥同一皂,
雞棲鳳凰食。
一朝蒙霧露,
分作溝中瘠。
如此再寒暑,
百沴自僻易。
哀哉沮洳場,
為我安樂國。
豈有他謬巧,
陰陽不能賊。
顧此耿耿在,
仰視浮雲白。
悠悠我心悲,
蒼天曷有極!
哲人日已遠,
典刑在夙昔。
風簷展書讀,
古道照顏色。

 

Chính khí ca

Thiên địa hữu chính khí,
Tạp nhiên phú lưu hình.
Hạ tắc vi hà nhạc,
Thượng tắc vi nhật tinh.
Ư nhân viết hạo nhiên,
Bái hồ tắc thương minh.
Hoàng lộ đương thanh di,
Hàm hoà thổ minh đình.
Thời cùng tiết nãi hiện,
Nhất nhất thuỳ đan thanh.
Tại Tề thái sử giản,
Tại Tấn Đổng Hồ bút.
Tại Tần Trương Lương chuỳ,
Tại Hán Tô Vũ tiết.
Vi Nghiêm tướng quân đầu,
Vi Kê thị trung huyết.
Vi Trương Tuy Dương xỉ,
Vi Nhan Thường Sơn thiệt.
Hoặc vi Liêu Đông mạo,
Thanh tháo lệ băng tuyết
.
Hoặc vi “Xuất sư biểu”,
Quỷ thần khấp tráng liệt.
Hoặc vi độ giang tiếp,
Khảng khái thôn Hồ Hiệt.
Hoặc vi kích tặc hốt,
Nghịch thụ đầu phá liệt.
Thị khí sở bàng bạc,
Lẫm liệt vạn cổ tồn.
Đương kỳ quán nhật nguyệt,
Sinh tử an túc luân.
Địa duy lại dĩ lập,
Thiên trụ lại dĩ tôn.
Tam cương thực hệ mệnh,
Đạo nghĩa vi chi căn.
Ta dư cấu dương cửu,
Lệ dã thực bất lực.
Sở tù anh kỳ quan,
Truyền xa tống cùng bắc.
Đỉnh hoạch cam như di,
Cầu chi bất khả đắc.
Âm phòng khuých quỷ hoả,
Xuân viện bí thiên hắc.
Ngưu ký đồng nhất tạo,
Kê thê phượng hoàng thực.
Nhất triêu mông vụ lộ,
Phân tác câu trung tích.
Như thử tái hàn thử,
Bách lệ tự tích dịch.
Ai tai thư như trường,
Vi ngã an lạc quốc.
Khởi hữu tha mậu xảo,
Âm dương bất năng tặc.
Cố thử cảnh cảnh tại,
Ngưỡng thị phù vân bạch.
Du du ngã tâm bi,
Thương thiên hạt hữu cực.
Triết nhân nhật dĩ viễn,
Điển hình tại túc tích.
Phong thiềm triển thư độc,
Cổ đạo chiếu nhan sắc.

 

Dịch nghĩa

Trời đất có chính khí
Giao hoà sinh ra muôn hình
Dưới là sông núi
Trên là mặt trời và các sao
Với người là hạo khí
Tràn ngập cả trời rộng
Nước vua đang buổi thanh bình
Tràn minh đình niềm yên vui
Gặp buổi cùng cực biểu hiện khi tiết
Ở đâu cũng lưu lại những nét đẹp đẽ
Ở Tề là giản thư của Thái sử
Ở Tấn là ngọn bút của Đổng Hồ
Ở Tần là tiếng chuỳ của Trương Lương
Ở Hán là khí tiết của Tô Vũ
Là đầu của Nghiêm tướng quân
Là máu của Kê thị trung
Là răng của Trương Thư Dương
Là lưỡi của Nhan Thường San
Hoặc làm mũ Liêu Đông
Tháo hạnh sáng cùng băng tuyết
Hoặc làm xuất sư biểu
Khiến quỷ thần phải khóc vì tráng liệt
Hoặc làm mái chèo qua sông
Khảng khái nuốt giặc Hồ
Hoặc làm hốt đập giặc
Vỡ sọ tên đầu sỏ
Khí này có ở khắp mọi nơi
Lẫm liệt còn lại từ muôn thuở
Nó còn xông lên tận mặt trời mặt trăng
Còn sống chết thì đáng nói làm gì!
Giây chằng đất dựa vào nên vững
Cột chống đỡ trời dựa vào nên được tôn
Đó là mạng sống thực của tam cương
Là gốc của đạo nghĩa
Than ta nay gặp thì dương cửu
Phụ thuộc vào sức không nổi nữa
Sở tù nhớ nước vẫn mặc áo đội mũ
Xe truyền nhau đưa lên tận vùng Bắc
Vạc nước sôi xem ngọt trưa đường
Có cầu xin cũng không được
Âm phòng vắng lặng, ngọn lửa oan cừu
Trời viện xuân bưng bít tối đen
Trâu, ngựa ký cùng ở một lầu
Gà đậu phượng hoàng ăn
Một hôm có mù buông sương phủ
Phận làm xương khô trong ngòi rãnh
Đã thế lại còn chập chờn mưa nắng
Trăm thế dịch tễ cứ tự tách xa
Thương thay, cái nơi ẩm thấp này
Lại là nước yên vui của ta
Chẳng có gì đơn sai cả
Âm dương không làm hại được
Bởi vậy nên ung dung tồn tại
Ngước lên nhìn mây trắng bay
Bâng khuâng lòng lo lắng
Trời xanh biết nơi nào là cùng!
Bậc hiền triết ngày càng xa
Gương sáng còn lại muôn thuở
Ra thềm mở sách ra đọc
Đạo xưa ngời qua nét mặt


Bài này tuyển từ Văn Sơn tiên sinh toàn tập quyển 4, bản Gia Tĩnh đời Minh. Nguyên bài thơ này có tiểu dẫn “Ta bị nhốt ở Bắc Đình, trong một căn nhà bằng đất. Nhà rộng tám thước sâu xuống lòng đất bốn tầm, có mỗi một cánh cửa thấp nhỏ, khoảng trống hẹp, ẩm thấp và tối tăm. Vào ngày hè, các mùi bốc lên nồng nặc, gồm mấy thứ khí hơi nước, khí đất, hơi nóng của mặt trời, hơi lửa, khí của gạo và uế khí, vẫn không bị các bệnh dịch xâm hại đến, và ta sống ở nơi này đã hai năm rồi, không sao cả. Đó là có sự nuôi dưỡng bên trong mới được như vậy, chắc các ngươi cũng chẳng biết nguồn nuôi dưỡng đó từ đâu? Mạnh Tử nói ‘Ta biết bồi bổ hạo khí của ta’. Ở đây có bẩy khí, ta có một khí, một địch lại bẩy ta còn lo gì nữa. Huống hạo khí là chính khí vậy, nên làm bài Chính khí ca.”

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Hoàng Tạo

Trời đất có chính khí
Toả ra cho muôn loài
Là sông núi dưới đất
Là trăng sao trên trời
Đầy rẫy cả vũ trụ
Khí hạo nhiên của người
Gặp cảnh đời bình trị
Triều thịnh vang lời vui
Khi cùng, tiết tháo rõ
Sử xanh ghi đời đời.
Ở Tề, sách Thái Sử
Ở Tấn, bút Đổng Hồ
Ở Tần, chuỳ Bác Lãng
Ở Hán, cờ họ Tô
Đầu Nghiêm thách trước giặc
Máu Kê trên áo vua
Răng Trương công chửi địch
Lưỡi Kiều Khanh mắng thù.
Hoặc là mũ Liêu Đông
Vẻ băng tuyết phau phau
Hoặc là biểu “Ra quân”
Lẫm liệt quỷ thần sầu
Hoặc qua sông gõ nhịp
Khảng khái nuốt quân Hồ
Hoặc giật hốt đánh giắc
Phường tiếm nghịch toang đầu.
Khi ấy tràn ngập tới
Oai nghiêm muôn thuở còn
Khi đã vượt nhật nguyệt
Sống thác chuyện con con!
Khuôn đất nhờ đó vững
Cột trời nhờ đó còn
Ba giường được gìn giữ
Đạo nghĩa có gốc nguồn.
Xót ta gặp vận ách
Tướng sĩ thực hèn nhát
Dải mũ buộc thân tù
Xe chở lên cực bắc
Ninh nấu cũng cam lòng
Còn để ta mong mãi
Phòng sâu ma lập loè
Viện xuân thành ngục tối!
Ngựa giỏi nhốt cùng trâu
Chuồng gà, phượng nhặt thóc
Thân này khi gió sương
Đành rãnh ngòi lăn lóc
Thế mà hai năm qua
Tránh xa bao khí độc
Thương ôi! Chỗ lội lầm!
Lại sống yên tối sớm
Phải đâu khôn khéo gì
Âm dương không dám phạm
Vằng vặc tấm cô trung
Ngẩng nhìn mây trắng nổi
Buồn thay! Nỗi lòng ta
Trời xanh cao vòi vọi!
Thánh hiền khuất lâu rồi
Khuôn phép vẫn không mất
Hiên gió mở sách coi
Gương xưa soi trước mặt.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
65.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh.
Tại người là hạo nhiên
Vũ trụ đầy anh linh
Khí hoà nhả trước sân
Là gặp lúc thanh bình
Thời cùng cao tiết hiện
Nhất nhất ghi sử xanh.
Ở Tấn, bút Đổng Hồ
Ở Tề, thẻ thái sử
Ở Tần, dùi Trương Lương
Ở Hán, cờ Tô Vũ
Là đầu Nghiêm tướng quân
Là huyết Kê thị trung
Là răng Trương Tuy Dương
Là lưỡi Nhan Thường Sơn
Hoặc là mão Liêu Đông
Tiết trong hơn băng, tuyết.
Hoặc là biểt xuất sư
Quỷ thần khóc tráng liệt
Hoặc gõ chèo qua sông
Khẳng khái nuốt rợ Hiệt
Cầm hốt đập bể sọ
Nghịch tặc phải rên siết.
Khi ấy nó bàng bạc
Lẫm liệt vạn cổ còn
...


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
13.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của 1

Tinh hoa chính khí đất trời
Khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng.
Tràn mặt đất tuôn sông kết núi
Vút trời mây chói lói trăng sao.
Trần ai lẩn bóng anh hào
Muôn ngàn khí phách rạt rào tầng xanh.
Thuở non nước thanh bình khắp chốn
Nét đan thanh chóng lộn bệ rồng.
Sơn hà gặp buổi lao lung
Càng cao tiết ngọc càng bừng vẻ son.
Tề Thái Sử mất còn mấy độ
Thẻ tre kia há sợ gươm ai.
Đổng Hồ múa bút mấy hồi
Làm cho Tấn tặc tơi bời ruột gan.
Trương Lương xót nỗi Hàn khói lửa
Dùi đồng vung, nghiêng ngửa Tần vương.
Ngọn cờ Tô Vũ phong sương
Càng băng giá cảnh càng hương sắc lòng.
Đầu Nghiêm tướng dường đồng dường thép
Máu Kê quân nhuốm hết long bào.
Trương Tuần răng cứng cát sao
Thành đồng đà nát lòng đào khôn thay.
Lưỡi Thường sơn nào hay lắt léo
Mũ Quảng Ninh che nẻo Liêu Đông.
Xuất sư biểu ấy hào hùng
Ngọc vàng rộn rã nát lòng thần minh.
Dòng nước Hiệt lênh đênh bỡ ngỡ
Thề cùng sông: tan rợ mới về!
Hốt ngà có lúc cũng ghê
Cho đầu soán chúa ê chề khóc tang.
Linh khí ấy chứa chan muôn thuở
Rực trần ai tở mở trăng sao.
Khí thiêng đượm máu hùng hào
Phù sinh nhẹ tựa hồng mao sá gì.
Giây buộc đất nó se cho vững
Cột chống trời nó dựng cho cao.
Cương thường đạo nghĩa trước sau
Mỗi giường then chốt quán thâu một mình.
Ta vỡ bước điêu linh tù túng
Vì ba quân lấp lửng ươn hèn.
Thân tù dạ lỏng khoá then
Một xe đầy ải băng miền heo may.
Đời luân lạc tỉnh say mấy độ
Vạc dầu sôi mà ngó như sương.
Ngục tù khoá kín ánh dương
Phòng giam trời vắng tối dường than tro.
Long câu giữa đàn gà len lỏi
Phượng hoàng kia thân gửi đàn gà.
Một mai gió lạnh sương mờ
Mấy hồi run rét xác sơ thân tàn.
Cậy tuế nguyệt thổi tan chướng khí
Nhờ dương quang đượm vẻ an khương.
Nhớp nhơ là chốn tù trường
Mà ta khinh khoát coi thường Bồng lai.
Ta vốn chẳng có tài phép lớn
Nhưng trần ai khôn bận lòng ta.
Lòng ta chính khí chói loà
Âm dương điên đảo khôn mờ tấc son.

24.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Thọ (I)

Anh hoa chính khí đất trời
Khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng.
Tràn mặt đất tuôn sông kết núi,
Vút trời mây chói lói trăng sao
Trần ai lẩn bóng anh hào,
Muôn ngàn khí phách rạt rào tầng xanh.
Thuở non nước thanh bình khắp chốn,
Nét đan thanh chóng lộn bệ rồng.
Sơn hà gặp buổi lao lung,
Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.
Tề Thái Sử mất còn mấy độ,
Thẻ tre kia há sợ gươm ai.
Đổng Hồ múa bút mấy hồi,
Làm cho Tấn tặc tơi bời ruột gan.
Trương Lương xót nỗi Hàn khói lửa,
Dùi đồng vung, nghiêng ngửa Tần vương.
Ngọn cờ Tô Vũ phong sương,
Càng băng giá cảnh, càng hương sắc lòng.
Đầu Nghiêm tướng dường đồng, dường thép,
Máu Kê quân nhuốm hết long bào.
Trương Tuần răng cứng cát sao,
Thành đồng đà nát, lòng đào khôn thay.
Lưỡi Thường Sơn nào hay lắt léo,
Mũ Quảng Minh che nẻo Liêu Đông.
Xuất sư biểu ấy hào hùng,
Ngọc vàng rộn rã nát lòng thần minh.
Dòng nước Hiệt lênh đênh bỡ ngỡ,
Thề cùng sông: «an rợ mới về!
Hốt ngà có lúc cũng ghê,
Cho đầu soán chúa ê chề tóc tang.
Linh khí ấy chứa chan muôn thuở,
Rực trần ai, tở mở trăng sao.
Khí thiêng đượm máu hùng hào,
Phù sinh nhẹ tựa hồng mao sá gì.
Giây buộc đất nó xe cho vững,
Cột chống trời nó dựng cho cao.
Cương thường đạo nghĩa trước sau,
Mối giường then chốt quán thâu một mình.
Ta lỡ bước điêu linh tù túng,
Vì ba quân lấp lửng ươn hèn.
Thân tù dạ lỏng khoá then,
Một xe đầy ải, băng miền heo may.
Đời luân lạc tỉnh say mấy độ,
Vạc dầu sôi mà ngó như sương.
Ngục tù khoá kín ánh dương,
Phòng giam trời vắng tối dường than tro.
Long câu giữa trâu bò len lỏi,
Phượng hoàng kia phận gửi đàn gà.
Một mai gió lạnh sương mờ,
Mấy hồi run rét, xác xơ thân tàn.
Cậy tuế nguyệt thổi tan chướng khí,
Nhờ dương quang đượm vẻ an khương.
Nhớp nhơ là chốn tù trường,
Mà ta khinh khoát coi dường Bồng Lai.
Ta vốn chẳng có tài phép lớn,
Nhưng trần ai khôn bận lòng ta.
Lòng ta Chính Khí chói loà,
Âm dương điên đảo khôn mờ tấc son.
Trời lồng lộng mây tuôn sóng bạc,
Động lòng sầu man mác trời mây.
Biển trời bát ngát chơi vơi,
Con thuyền dĩ vãng, bóng người xa xưa.
Người xưa quá, tinh hoa vẫn đó,
Tinh hoa còn rạng rỡ tờ mây.
Đạo xưa vầng sáng đâu đây,
Linh lung vầng sáng toả đầy dung quang.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
13.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Trong trời đất có mang chính khí
Giao hoà nên hình thể muôn loài
Dưới là đồi núi sông ngòi
Trên là tinh tú mặt trời mặt trăng
Đối với người gọi bằng hạo khí
Tràn khắp nơi kím cả trời xanh
Nước vua gặp buổi thanh bình
Yên vui tràn ngập minh đình đế vương
Gặp lúc cùng hào hùng khí tiết
Tất cả đều rõ nét trung trinh
Ở Tề Thái sử thẻ xanh
Đổng Hồ ở Tấn rành rành bút ghi
Tần Trương Lương tiếng chuỳ Bác Lãng
Hán Tử Khanh quyết chẳng hàng Hồ
Là đầu Nghiêm tướng quát to
Là máu Kê thị áo bào vua vương
Là Trương Tuần nghiến răng giận nổi
Là Cảo Khanh lưỡi chửi giặc Đường
Hay là cái mũ Liêu Đông
Thanh cao tiết tháo sánh cùng tuyết băng
Biểu xuất sư làm dâng đã khiến
Lòng liệt trung động đến thần linh
Qua sông là mái chèo nhanh
Quyết tâm thề diệt Hồ tanh mới về
Hoặc là hốt tay nhè đập giặc
Kẻ chủ mưu đầu toạc máu loang
Khí này có ở mọi phương
Muôn thu lẫm liệt vẫn trường tồn đây
Với khi thế xông tày Nhật nguyệt
Nhắc đến câu sống chết kể nào
Giây chằng đất vững dựa vào
Cột trời nhờ có tôn cao vững vàng
Tam cương nhờ nên càng thêm chắc
Đạo nghĩa nương làm gốc dài lâu
Than ta dương cửu vướng vào
Vì chưng sức kiệt tính sao bây giờ
Vẫn nhớ nước sở tù áo mặc
Xe truyền đưa lên Bắc biệt phương
Vạc sôi xem ngợt tựa đường
Từ nay mạng sống xem bằng như không
Lửa oan thù âm phòng sâu khuất
Trời viện xuân bưng bít đen mầu
Trâu, ngựa ký ở cùng tàu
Phượng hoàng, gà đậu cùng nhau một chuồng
Một hôm có mù buông sương phủ
Xương rãnh ngòi phận đã xui nên
Lại còn nóng lạnh đan xen
Hàng trăm dịch bệnh tự nhiên tránh người
Thương thay ta ở nơi ẩm mốc
Lại trở thành đất nước yên vui
Có đâu này khác đơn sai
Âm dương cũng chịu mọi tai tương nhường
Bởi thế nên đàng hoàng tồn tại
Ngước nhìn trời mây trải trắng phau
Bâng khuâng những nỗi lo âu
Như trời cao rộng biết đâu là cùng
Bậc hiền triết ngày càng xa cách
Tấm gương xưa sử sách còn in
Mở trang sách đọc bên thềm
Đạo xưa hắt ánh mặt thêm rạng ngời

tửu tận tình do tại
14.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Minh Ký

Khí trời chánh, khí đất tinh,
Xen làm cho vật nên hình nên thân;
Dưới thì sông toả núi phân,
Trên thì nhựt nguyệt tinh thần bủa dăn;
Nơi người khí lớn không ngằn,
Phới đầy ra đẩy lấp vầng mờ xanh;
Đường to đương lặng đương bình,
Ngậm hoà phun chốn triều đình thảnh thơi;
Thuở cùng bèn rỏ nết người,
Thảy đều chép để rạng ngời sử kinh;
Tại Tề, Thái Sử thẻ xanh,
Đổng Hồ tại Tấn củng rành but son;
Tại Tần dùi sắt Trương Lương,
Hán thời Tô Võ giữ thường tiết mao;
Đầu ông Nghiêm Tướng chi nao,
Máu ông Kê Thiệu thấm vào áo vua;
Thơ Dương liều thát mắng đùa,
Lưỡi ông Nhan Cảo chẳng lùa cùng ai;
Đội mủ đen, mặc áo gai,
Liêu Đông ngợi nết khen tài Quản Ninh;
Hoặc là lời biểu Khổng Minh,
Quỉ hung nớp sợ, thần linh phò trì;
Hoặc chèo gõ giữa sông thề,
Gồm thâu Hồ Yêc đam về trung nguyên;
Hoặc là vụt hốt đánh lên,
Quơ ngang dọc tráng, gạt xiên xẹo đầu;
Ấy là khí khái làu làu,
Cho hay lừng lẫy bao lâu củng còn;
Dương chen nhựt rạng nguyệt tròn,
Sống đâu có tưởng, thát dường chẳng lo;
Đất diềng nhờ lấy lập cho,
Cột trời nhờ lấy cao so chi tày;
Ba diềng thiệt mạng buột ngay,
Trong đàng đạo nghĩa gốc nầy là chung;
Gặp hồi Tống mạt thảm hung,
Tôi ngây không sức, tớ khùn hết phương;
Sở tù cột dải mảo trung,
Cho xe đưa tới bắc cùng thảm thương;
Đảnh đồng vạc sắt tợ đường,
Cầu không hay đặng, nào tường bởi ai;
Phòng mờ êm lửa ma trơi,
Viện xuân đóng bít ngỡ trời tối luôn;
Ngựa trâu cầm nhốt một chuồng,
Gà ăn đậu chỗ phụng hoàng vì ai;
Chịu mưa chịu móc một mai,
Phận đành gầy ốm thát nơi rạch ngòi;
Như vầy hai nắng lạnh rồi,
Khí hung trăm giống đổi dời mình chăng;
Thương thay bùn lấm một trường,
Làm cho ta tưởng nước bằng an vui;
Có đâu khéo tới dối lui,
Tại âm dương chẳng đặng xui hại người;
Nhìn đây rở rở còn hoài,
Ngước xem mây trắng dăn bài trên không;
Ta lo thảm thảm trong lòng,
Trời xanh sao có quanh vòng vẫn xa;
Người hay ngày đả cách ta,
Song le phép tắc ghi là từ xưa;
Gió thềm đọc sách đong đưa,
Gương xưa dọi mặt, đạo xưa soi lòng.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Trả lời