遷都詔

昔商家至盤庚五遷,周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私,妄自遷徙。以其圖大宅中,為億萬世子孫之計,上謹天命,下因民志,苟有便輒改。故國祚延長,風俗富阜。而丁黎二家,乃徇己私,忽天命,罔蹈商周之跡,常安厥邑于茲,致世代弗長,算數短促,百姓耗損,萬物失宜。朕甚痛之,不得不徙。

況高王故都大羅城,宅天地區域之中,得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位,便江山向背之宜。其地廣而坦平,厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困,萬物極繁阜之丰。遍覽越邦,斯為勝地。誠四方輻輳之要會,為萬世帝王之上都。

朕欲因此地利以定厥居,卿等如何?

 

Thiên đô chiếu

Tích Thương gia chí Bàn Canh[1] ngũ thiên[2], Chu thất đãi Thành Vương[3] tam tỉ[4]. Khởi Tam Đại[5] chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp[6] vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương[7] cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?


Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ tự tay viết và ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Việt từ Hoa Lư[8] (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay) ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Tương truyền khi thuyền vua đến dưới thành thì có điềm tốt: con rồng vàng bay lên, vua nhân đó đổi tên thành ra Thăng Long.

Chú thích:
[1]
Vua thứ mười bảy của nhà Thương, một triều đại rất xưa trong lịch sử Trung Quốc; năm lần dời đô nói việc các vua nhà Thương dời đô từ đất Bặc (Thương Khâu, Hà Nam) sang đất Hiêu (Huỳnh Trạch, Hà Nam), đất Tương (An Dương, Hà Nam), đất Cảnh (Hà Tân, Sơn Tây), đất Hình (Hình Đài, Hà Bắc), rồi đất ân (Yển Sư, Hà Nam).
[2]
Năm lần dời đô: Vua Thang (Thành Thang) đóng đô ở phía đông nam huyện Thương Khâu (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (thuộc tỉnh Hà Nam). Hà Đản Giáp đời đô đến phủ Chương Đức (cũng thuộc tỉnh Hà Nam).Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (tỉnh Hà Đông bây giờ). Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (hay Ân Sư thuộc tỉnh Hà Nam).
[3]
Vua thứ ba nhà Chu, triều đại cổ tiếp nối nhà Thương; ba lần dời đô nhắc đến việc Chu Văn Vương dựng nghiệp ở đất Kỳ (Thiểm Tây), Chu Vũ Vương dời đô đến Trường Yên (cũng Thiểm Tây), và Chu Thành Vương lại dời đô sang Lạc Ấp (Hà Nam). Thật ra, phải nói hai lần dời đô mới đúng!
[4]
Ba lần dời đô: Chu Văn Vương đóng đô ở phía đông tỉnh Thiểm Tây. Chu Vũ Vương dời đô đến huyện Tương Yên (tỉnh Thiểm Tây). Chu Thành Vương dời đô đến huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam).
[5]
Ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc.
[6]
Nơi đây, ý chỉ Hoa Lư, kinh đô của nhà Đinh do Đinh Bộ Lĩnh sáng lập và nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập. Lúc Lý Công Uẩn mới lên ngôi, kinh đô của nhà Lý vẫn còn ở đó.
[7]
Tức Cao Biền, quan đô hộ Giao Châu của nhà Đường vào khoảng các năm 864-875. Cao Biền đắp thêm thành Đại La vào khoảng năm 866.
[8]
Hoa Lư ( 20.250,105.973): Hoa Lư nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, là kinh đô của hai triều Đinh, Tiền Lê, là quê của Đinh Tiên Hoàng. Tương truyền Đinh Tiên Hoàng khi mới khởi nghĩa, lấy động Hoa Lư, một động còn có tên là Thung Lau hay Thung Ông, xưa thuộc xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, làm nơi tập trận và căn cứ quân sự cho nghĩa quân Đinh Bộ Lĩnh. Nơi đây núi đá bao quanh kiên cố, lại nhìn ra sông Đáy. Kinh đô này tồn tại 42 năm (968-1010), gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành cố đô. Các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau đó dù không đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ... Kinh đô Hoa Lư xưa nay chỉ còn là cố đô Hoa Lư với diện tích tự nhiên 13,87km² nằm trọn trong quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Cố đô Hoa Lư ngày nay
Hình: Cố đô Hoa Lư ngày nay

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô. Há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện di dời. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.

Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.

Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?


Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
163.94
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần đời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không đổi dời.

Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?


Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
134.46
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Thơ vịnh Sử

-THUẬN THIÊN LÝ THÁI TỔ
(Chào Thăng Long 1000 năm)

Công Uẩn *… con nuôi… Sư họ Lý
Quê làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn
Lòng người quy phụ… tôn ngôi đế
Trăm họ đồng thanh…. dẹp Đĩnh ôn
Niên hiệu Thuận Thiên xây triều đại (1010)
Kinh thành Thái Tổ gặp long vân
Hoa Lư đất cũ tươi hồng sử
Hà Nội ngày nay mãi vạn xuân…

Thiềng Đức - 4/9/2008


* (974 - 1028)
-Một chân lí đã "ngộ" ra và tôn thờ:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ Tài"
Nguyễn Du
35.00
Trả lời