城旗掛旭

萬里金湯翊帝畿,
城中旭掛大竿旗。
風飄峻毒昭文物,
日炤高臺絢彩儀。
紳冑直瞻為號令,
旗遊未論別尊卑。
天家制度昭平象,
兵木旗竿笑彼痴。

 

Thành kỳ quải húc

Vạn lý kim thang dực đế kỳ,
Thành trung húc quải đại can kỳ.
Phong phiêu tuấn độc chiêu văn vật,
Nhật chiếu cao đài huyến thái nghi.
Thân trụ trực chiêm vi hiệu lệnh,
Kỳ du vị luận biệt tôn ty.
Thiên gia chế độ chiêu bình tượng,
Binh mộc kỳ can tiếu bỉ si.

 

Dịch nghĩa

Thành trì vững chãi bảo vệ kinh đô bậc đế vương,
Lá cờ lớn treo trong nắng sớm ở giữa Kinh thành.
Gió dữ dội tung bay lá cờ lớn, làm rõ vẻ văn vật,
Mặt trời chiếu sáng trên đài cao, làm rực rỡ sắc màu uy nghi.
Quan tướng áo mũ chỉnh tề nhìn thẳng theo hiệu lệnh,
Lá cờ phấp phới không phân biệt chức tước thấp cao.
Chế độ nhà vua sáng tỏ trong những hình trạng thường ngày,
Gỗ quân dựng làm cán cờ cười kẻ kia si mê.


Nguyên dẫn: Thành Thăng Long tức thành Đại La xưa. Lý Thái Tổ từ Hoa Lư dời đô về đây, nhà Lý thấy rồng xuất hiện, mới đặt tên là thành Thăng Long. Nhà Minh sang xâm luợc đổi gọi là thành Đông Quan; Lê Thái Tổ khôi phục đất nước lại đổi về tên cũ. Cung điện và Môn khuyết đều theo chế độ nhà Lý, thành qua các đời đều có thay đổi. Hoàng triều (nhà Nguyễn), có xây dựng sửa sang thêm, lập ra Ngũ môn, cửa trước lập kỳ đài, trên treo cờ to làm quân hiệu, mặt trời chiếu hồng tâm rực rỡ loá mắt.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]