Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/03/2025 23:29
Cơ đâu chuyển vận,
Lộ thực cảm thông.
Khác thuở điềm xưa Hiên hậu;
Lạ chưng giấc mộng Cao Tông.
Gánh cương thường nhậm lấy một mình, khá khen Phu Tử;
Thuở mộng mị dường bằng có ý, bèn thấy Chu Công.
Nguyên từ:
Quang nhạc xuống linh,
Bể dòng cấu khí.
Non Ni sơn sớm ứng trinh tường,
Làng Khuyết lý trỏ sinh thánh trí.
Hiển chương một đạo, rắp theo đòi dấu cũ Văn Vương;
Mộng mị đòi phen, còn tưởng tượng đời xưa trủng tể.
Chưng khi ấy:
Song mai lúc vắng,
Đàn hạnh đêm nhàn.
Ngẩng mặt, lòng kia cỏn tưởng;
Gối tay, giấc nọ vừa an.
Trên kỷ tịch mơ màng, nửa tự cổn y ngồi chắm chắm,
Trước môn tường phảng phất, dường màu xích tích bước khoan khoan.
Nghĩa bình tố chưa từng quen thuộc,
Giấc chiêm bao sao khéo bàn hoàn.
Thấy đâu:
Chí đã hẹn hò,
Lòng còn dan díu.
Xa xôi tuy cách trăm năm,
Sau trước cũng về một đạo.
Gồm ba vua ra bốn việc, nền Thái Hoà mong trở gót Thành Khang.
Vừa chẵn tháng trải ba năm, đời chí trị rắp lại miền Phong Cảo.
Lo lường khôn xiết tư lương,
Mộng mị xảy nên trẫm triệu.
Ví dầu:
Lòng trời muốn trị,
Đạo thánh gặp thì.
Quyền chính giáo mặc dầu cắt đặt;
Việc quốc gia chỉn được thi vi.
Chuyển máy thiêng biến Lỗ biến Tề, sao liệt quốc lại chầu về bắc;
Ra tay giúp làm vương làm đế, vác Thành Chu ắt trở sang tây.
Thời tiết ấy đặng công nghiệp ấy,
Chiêm bao kia phỉ chí khí kia.
Nài bao:
Cùng đạt mặc giời,
Thịnh suy có số.
Chí cả kia mong rắp ra làm,
Nước hầu nọ lại hay quyến chủ.
Đường re ngựa quê người dặm khách, luống trải qua Lỗ, Vệ, Tống, Trần;
Tiết hối minh sớm gió tối mưa, khôn đem Iại Thành, Khang, Văn, Võ.
Vậy khiến:
Thương lân sùi sụt,
Thán phượng nghêu ngao.
Thời chưa gặp thánh nhân đã vậy;
Đạo chẳng dùng thiên hạ làm sao!
Hai trăm lẻ xuân thu, mới biết trị bình chẳng dễ;
Bảy mươi thừa tuế nguyệt, thêm tuần tuổi tác càng cao.
Mọi nỗi luống xui than thở;
Bấy lâu vắng thấy chiêm bao.
Song le:
Danh sánh giời dài,
Đức so bể rộng.
Vì muôn đời mở tượng thái bình;
Gộp bầy thánh uyên nguyên đạo thống.
Tay thiều Tề, Khánh, Vệ chưa chút đền chí cả ước ao;
Song thánh đức, văn công, còn để đến đời sau sùng trọng.
Tới nay:
Ngẩng trông cổn miện,
Ngảnh kính thu dương.
Hãy còn tưởng khi giấc mộng.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 25/03/2025 00:12
Xuân quận công Nguyễn Nghiễm - nhân vật văn võ toàn tài, thân phụ của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du - là người đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển rực rỡ của dòng họ Nguyễn Tiên Điền từ thế kỷ XVIII trên nhiều lĩnh vực, trong đó có sự nghiệp trước tác học thuật. Ông là nhà sử học, nhà giáo dục, nhà văn hoá và cũng là nhà văn hiến học tầm cỡ. Trong sự nghiệp trước tác của ông, một trong những bài phú Nôm nổi tiếng đương thời là Khổng Tử mộng Chu Công phú. Đến nay, mặc dù có nhiều công trình công bố tác phẩm này, tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào tìm hiểu, xử lý và phiên dịch chính xác nó.
Trong quá trình nghiên cứu về di sản Hán Nôm của Nguyễn Nghiễm, chúng tôi đã may mắn tiếp cận được văn bản chữ Nôm của bài phú này. Trên cơ sở khảo cứu văn bản học, chúng tôi - qua bài viết này - mong muốn sẽ trả lại nguyên bản giá trị của Khổng Tử mộng Chu Công - bài phú Nôm độc đáo, hấp dẫn và góp phần khẳng định giá trị, vị thế của thơ ca Quốc âm trong đời sống văn hoá của dân tộc.
1. Đặt vấn đề
Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (1708-1776) là người có đóng góp rất lớn cho lịch sử - xã hội cuối thời Lê Trung Hưng. Ông là bậc huân thần của triều Lê - Trịnh, bên cạnh thành tựu trên con đường võ nghiệp, Hy Tư phủ đã góp phần không nhỏ trong việc đào tạo các bậc hiền tài cho đất nước (1). Đồng thời, ông còn là nhà sử học đầy trí tuệ (2).
Trên phương diện văn nghiệp, mặc dù các tác phẩm của ông bị tản mác và thất lạc khá nhiều, song những thư tịch còn lại cũng thể hiện rõ nét tài năng văn chương của Hồng Ngư cư sĩ. Trong số đó, bài phú Khổng Tử mộng Chu Công là tác phẩm sắc sảo, chứa đựng nhiều “ẩn ngữ” của Nguyễn Nghiễm. Và, trước tác ấy cùng bài Chiêu tổ Khang vương (3) có giá trị không nhỏ trong hệ thống thi phú “Quốc âm”.
Khổng Tử mộng Chu Công từng được chú ý từ đầu thế kỷ XX, với cuốn Truyện cụ Nguyễn Du của Phan Sĩ Bàng và Lê Thước (4). Trong đó, các tác giả đã đánh giá rất cao bài phú với “… nhiều câu hùng kính lực lượng, khí lượng lớn lao, những tay tầm thường chương cú có thể cầm bút không viết nổi”(5).
Học giả Dương Quảng Hàm, trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, chương XIV, mục phú, đã dẫn giải các câu “Cơ mầu vận chuyển, lòng thực cảm thông; Khác thuở điềm xưa Hiên hậu, Lạ chừng giấc mộng Cao Tông…” (6) để dẫn giải làm điển hình cho luật gieo vần như tứ tự, cách cú, song quan… trong thể phú.
Gần đây, giới học giả tiếp tục khẳng định Khổng Tử mộng Chu Công là tác phẩm rất có giá trị (7), đồng thời, có thêm nhiều công trình chép bài phú này như Phú Việt Nam cổ và kim của hai tác giả Tạ Phong Châu - Nguyễn Văn Phú (NXB Văn hoá, 1961), Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ do Thái Kim Đỉnh biên soạn (NXB Nghệ An, 1995) (8), Từ điển tác gia văn hoá Việt Nam của Nguyễn Q Thắng (9) và Di sản văn chương Văn miếu Quốc tử giám do PGS. Phan Văn Các - PGS.TS. Trần Ngọc Vương đồng chủ trì.
Đáng tiếc, các công trình có Khổng Tử mộng Chu Công [phú] trên là chỉ chép bằng Quốc ngữ, không dẫn liệu nguồn gốc tác phẩm.
Trong quá trình nghiên cứu về trước tác Nguyễn Nghiễm, chúng tôi đã tiếp cận và khảo sát Khổng Tử mộng Chu Công của Nguyễn Nghiễm từ văn bản Quốc âm (chữ Nôm). Bài phú Nôm Khổng Tử mộng Chu Công hiện đang được chép hai lần (lần 1: trang 4a-5b; lần 2: trang 59a-60b) trong sách Thi ca phú tạp lục ký hiệu VNb.1 ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Sách Thi ca phú tạp lục là bản viết tay, không đề tên tác giả, có 176 trang, khổ 21x16 cm. Sách còn được gọi là Trương Lưu hầu phú, tức lấy tên tác phẩm đầu tiên để đặt. Trước tác Khổng Tử mộng Chu Công chép 2 lần, gần như trùng khít với nhau về nội dung. Ở văn bản đầu (trang 4a-6b), dưới phần tiêu đề, có phần chua thêm bằng mực bút bi các chữ 即阮儼 又一本見後 [tức Nguyễn Nghiễm, lại có một bản, xem ở phía sau] sau dòng 仙田左相阮公 [Tiên Điền tả tướng Nguyễn Công]. Những chữ chua thêm ấy có thể là của một nhà nghiên cứu, hoặc thủ thư nào đấy trong thời gian mới đây - nét bút bi chỉ rõ hiện trạng đó. Cả bài phú chép bằng kiểu chữ hành đá thảo. Về tình trạng sách: ở các trang đầu, trong đó có Khổng Tử mộng Chu Công (trang 4a-5b), có nhiều chữ đè lẫn lên nhau, nên rất khó đọc.
Bản chép lại ở trang 59a-60b ít bị chữ đè hơn, kiểu chữ khải chân phương, nhìn khá rõ. Văn bản được người sau dùng bút bi đánh số ngắt câu (số 1, 2, 3…), có chữ “tông” 宗 chép thành “tôn” 尊, chứng tỏ kỵ huý vua Thiệu Trị (trang 59a). Trong những dòng chữ đè đó, chúng tôi đọc được dòng ngang (ngược chữ): “Minh Mạng nhị thập niên bát nguyệt nhị thập lục nhật” 明命貳十年捌月貳十陸日 (ngày 26 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 20-1839) cùng dấu ấn triện (do bị đè nên không rõ chữ).
Như vậy, căn cứ vào các đặc điểm trên, bài phú được chép đầu (trang 4a-5b) vào khoảng năm Minh Mạng thứ 20 (1839). Văn bản chép ở trang 59a-60b được chép lại vào đời Thiệu Trị (từ 1841-1847), vì không kỵ huý “thời/thì” 時 (của vua Tự Đức).
Chúng tôi khi tiến hành phiên âm, đã đối chiếu song song hai bản, và lựa chọn bản 59a-60b làm bản nền, vì là bản ưu điểm nhất, để tìm hiểu và phiên dịch.
2. Về bài phú Nôm Khổng Tử mộng Chu Công
2.1. Vài nét về Chu Công, Khổng Tử và đề tài Khổng Tử mộng Chu Công
Chu Công 周公: là tước vị của Cơ Đán 姬旦 nhà Chu 周. Ông là con thứ tư của Chu Văn Vương Cơ Xương 周文王姬昌, em cùng mẹ với Chu Vũ Vương Cơ Phát 周武王姬發, chú của Chu Thành Vương Cơ Tụng 周成王姬誦.
Chu Công là công thần khai quốc nhà Chu, có công giúp Chu Vũ Vương lập ra Chu triều (1122-256 tr.CN). Sau đó, trên cương vị nhiếp chính, Chu Công Cơ Đán giúp Chu Thành Vương dẹp loạn, lập 71 nước chư hầu, phát triển nhà Chu thành một nước mạnh mẽ và xây dựng nền văn hoá Trung Hoa rực rỡ, thịnh vượng trong quá khứ. Chu Công Đán có đóng góp công lao rất lớn trong việc hoàn thiện thể chế, xác lập đẳng cấp trong xã hội “Dựa theo chế độ nhà Chu, điều chỉnh lễ của nhà Ân, ‘chế lễ tác nhạc’, hoàn thiện các điển chương chế độ, được gọi là ‘Chu lễ’ hoặc ‘Chu Công chi điển’ có ảnh hưởng sâu xa đến đời sau” (11). Đặc biệt, những tư tưởng chuẩn mực của ông “trở thành nền tảng chủ trương ‘đức trị’ của Nho gia sau này” (12).
Mặc dầu bị không ít gièm pha, nghi kỵ, nhưng ông vẫn một lòng trung thành và dốc hết tâm huyết phò trợ Chu triều. Tấm gương tài đức của Chu Công cùng với những điển chương, chế độ về lễ nhạc, những nền tảng xã hội do ông thiết lập… chính là “tài sản” quý báu nhất cho thế hệ sau kế tục, phát huy.
Khổng Tử 孔子(551-479 tr.CN): tên Khâu 丘, tự là Trọng Ni 仲尼, sinh vào thời Xuân Thu, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội trứ danh. Triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trong nền văn hoá Đông Á.
Khổng Tử sinh ra trong thời loạn, những thiết chế xã hội, lễ nghi tốt đẹp nhất làm nền tảng cho xã hội ổn định của các triều đại trước… đã dần đi vào suy thoái “chư thần lấn át thiên tử, quan đại phu lại giàu có và thế lực hơn vua” (13).
Bởi vậy, Khổng Tử luôn noi theo đạo của Chu Công, thiết lập một xã hội tốt đẹp. Do đó, trong Luận ngữ - cuốn sách tập hợp những lời giảng dạy của Khổng Tử - đã không ít lần nhắc đến Chu Công (14).
Trong thi thư Việt Nam, đề tài Khổng Tử mộng Chu Công là một đề tài khá hấp dẫn với các bậc tao nhân, mặc khách, khanh tướng… trong thời trung đại ở nước ta. Hiện, theo chúng tôi tìm hiểu, đề tài này từng hiện diện trong một số bài thơ, phú như: Khổng Tử mộng Chu Công phú (phú Hán) trong sách Tân phong phú, ký hiệu R.1654 (Thư viện Quốc gia Việt Nam); và bài Khổng Tử mộng Chu Công phú (phú Hán) trong sách Phú nghĩa tập, ký hiệu R.453 (Thư viện Quốc gia Việt Nam); Các bài thơ Khổng Tử mộng Chu Công trong sách Hoàng Lê ứng chế thi (ký hiệu: VHv.664 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
Tuy nhiên, điểm khác biệt của bài phú Nguyễn Nghiễm so với các bài thơ phú cùng đề tài trên chính là: bài phú này dùng bằng Quốc âm (chữ Nôm) - tiếng nói gần gũi, dân dã nhất của dân tộc ta, mà vẫn rất điêu luyện, sắc sảo, lột tả được biết bao nhiêu ý nghĩa hàm súc, đảm bảo sự chuẩn xác và độc đáo từ thể tài phú vựng.
2.2. Bài phú Nôm Khổng Tử mộng Chu Công
Bài phú Nôm Khổng Tử mộng Chu Công là một tác phẩm khá điển hình cho thể loại phú Nôm, được sáng tác bởi một tác giả thông tuệ, tài trí vượt bậc như Nguyễn Nghiễm, nên, để hiểu rõ tính uyên bác, sâu sắc từ trước tác này, chúng tôi xin đưa nguyên bản chữ Nôm, đồng thời phiên âm và chú thích rõ.
[...]
Khổng Tử mộng Chu Công3. Thay lời kết
Cơ mầu chuyển vận, lòng thực cảm thông.
Khác thuở điềm xưa Hiên hậu (15); Ngỡ chưng giấc mộng Cao Tông (16).
Cương thường gánh nặng ở đầu, khá khen Khổng Tử;
Mộng mị dường bằng có ý, lọ (17) thấy Chu Công.
Nẻo từ:
Quang nhạc xuống thiêng, bể sông cấu khí (18).
Điềm lành sớm ứng núi Ni Sơn; Đức cả lọ sinh làng Khuyết Lý (19).
Hiến chương một dạ, từ theo dấu cũ hưng Chu (20);
Mộng tưởng đòi phen, còn thấy đời xưa trủng tể (21).
Chưng khi ấy:
Song mai thuở vắng, đàn hạnh đêm nhàn (22).
Ngưng mặt, lòng kia sẽ nhớ; uốn tay, niềm nọ vừa an.
Trên kỉ tịch mơ màng, phỏng dạng cổn y ngồi chắm chắm (23).
Trước cung tường phảng phất, dường bằng xích tích bước khoan khoan (24).
Nghĩa bình tố chưa từng quen thuộc; Giấc chiêm bao sao khéo loàn đan (25).
Thấy âu:
Chí đã hẹn hò, lòng càng dan díu.
Xa xôi tuy cách trăm năm; Sau trước cùng về một đạo.
Gồm ba vua, ra bốn việc; Nền thái bình mong theo dấu Thành Chu (26).
Nọ chín tháng, trọn ba thu; Trường văn vật nghị về miền Phong Cảo (27).
Mấy niềm riêng khôn xiết tư lường; Phỉ giấc mộng xảy nên trẫm triệu (28).
Ví dù:
Lòng trời muốn trị, đạo thánh gặp thì.
Quyền chính giáo ra tay cất đặt; Việc quốc gia mặc sức thi vi (29).
Chuyển máy thiêng biến Lỗ, biến Tề; Sao hầu quốc lại chầu về Bắc (30).
Ra tài lạ làm vương, làm đế; Vạc Thành Chu ắt dễ sang Tây (31).
Thời tiết ấy đặng công nghiệp ấy; Chiêm bao này phỉ chí khí này.
Nài bao:
Cùng đạt bởi trời, thịnh suy mặc số.
Ngựa - xe nhiều thuở ruổi rong; Quân - tướng quen lòng, quyến cố.
Lẫn lữa quê nhà dặm khách, luống trải qua Lỗ - Vệ - Tống - Trần (32);
Một mong sớm gió tối mưa, khôn đem lại Thành - Khang - Văn - Võ (33).
Nữa khiến:
Khóc lân sùi sụt, than phượng nghêu ngao (34).
Thời chửa gặp thánh nhân đã vậy; Đạo chẳng ra thiên hạ làm sao.
Hai trăm lẻ Xuân Thu (35), mới biết trị bình chửa dễ;
Bảy mươi dư tuế nguyệt (36), thêm buồn tuổi tác càng cao.
Mỗi nỗi luống nhiều than thở; Bấy lâu sao vắng chiêm bao (37).
Song le:
Cháy cháy thu dương; đùn đùn thái nhạc (38).
Hợp quần thánh dội kim thanh; Nức bốn phương vang mộc đạc (39).
Hai trăm năm thay quyền thưởng phạt (40), công dễ thâu mỗi việc cần lao;
Muôn ngàn đời mở nghiệp thái bình, tài chi kiếm nhất thời chế tác.
Mới hay:
Ngàn thu một thánh, ngàn thánh một lòng. Khổng Tử ví Chu Công nào khác.