Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Công Trứ » Ca trù
Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2005 23:38, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 14/02/2016 22:38
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý.
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.
Khí hạo nhiên chí đại chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.
Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất,
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí,
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên.
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Mang quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lang miếu ra tài lương đống,
Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ, sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung,
Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nước nhà yên mà sĩ được thung dung,
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch.
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn.
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh.
Này này sĩ mới hoàn danh.
Chữ Hán: 爵有五士居其列,民有四士為之先. Nghĩa: Tước có năm bậc (thượng đại phu khanh, hạ đại phu, thượng sĩ, trung sĩ, hạ sĩ), sĩ cũng dự vào; Dân có bốn loại (sĩ, nông, công, thương), sĩ đứng đầu. |
Điển tích Lã Vọng xưa ngồi câu cá bên bờ sông Vị. |
Điển tích Y Doãn xưa kia làm ruộng ở đất Sằn. |
Xe nhà vua dùng để rước người hiền tài giúp nước |
Tức vua Thang, người đã đón Y Doãn về phò tá và lập ra nhà Thương. |
Tức vua Văn Vương, người đã đón Lã Vọng về phò tá và lập ra nhà Chu. |
Giúp cho đạo giáo của đời. |
Lời bàn bạc khen kẻ hay, chê kẻ dở. |
Trừ những điều gian tà, ngăn những điều bất chính. |
Chữ Hán: 迴狂瀾而障百川. Nghĩa: Ngăn sóng dữ mà giữ các dòng sông. |
Nói chung đền đài nhà vua, ở đây ý nói làm quan ở kinh đô. |
Tên thanh gươm báu của vua Hạp Lư nước Ngô, ở đây chỉ chung binh khí. |
Chữ Hán: 經綸起心上,兵甲藏胸中,宇宙之間皆分事,男兒到此是豪雄. Ý nói làm trai vừa có tài để trị nước, vừa có võ để dẹp yên giặc, trong khoảng trời đất đều là phận sự của mình, nam nhi đến thế mới hào hùng. |
Tức Hoàng Thạch công, một ẩn sĩ. Trương Lương cuối đời Tần đi chơi đất Hạ Bì đến Dĩ Kiều gặp ông già (Hoàng Thạch công) trao cho quyển Binh thư tam lược để bình thiên hạ, rồi dặn sau 13 năm đến núi Cốc gặp hòn đá vàng chính là ông ấy. Trương Lương là tướng của Lưu Bang bình thiên hạ lập nhà Hán. |
Trang trong tổng số 1 trang (8 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi voquangthuan ngày 01/09/2007 04:57
Tôi vừa dự lễ tang của 1 người thân . Lời cám ơn kết thúc bằng bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ . Bài thơ hay quá . Xin cám ơn Điệp Luyến Hoa rất nhiều . Trong cuộc sống hiện đại ngày nay , thơ cổ vẫn còn giá trị như xưa . Thật là bất hủ !
Gửi bởi phamvanhien2@yahoo.com.vn ngày 07/11/2011 16:18
TƯỚC HỮU NGŨ{THƯỢNG ĐẠI PHU,HẠ ĐẠI PHU,THƯƠNG SĨ, TRUNG SĨ, HẠ SĨ}
DÂN HỮU TỨ { SĨ, NÔNG, CÔNG THƯƠNG}
Gửi bởi Trần Sơn Huy ngày 23/12/2011 09:47
Có 1 người thích
Tôi vẫn còn giữ một cuốn sách "Việt Nam thi văn hợp tuyển" của Dương Quảng Hàm và câu "Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị" là "Hương đảng" chứ không phải "hương đãng". Xin bạn xem lại chi tiết này. Ngoài ra câu sau là "Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường" thay vì "cang thường" tuy nhiên cương - cang trước giờ vẫn được dùng thay thế nhau mà bài thơ lại được viết theo chữ Nôm-Hán nên không quá quan trọng.
Gửi bởi hoangtuan_bmt ngày 09/09/2015 14:37
Tước hữu ngũ là năm tước mà nhà vua ban cho kẻ sĩ đó là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Như là Đặng Trần Côn tác giả của tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm" được vua Lê phong tước Hầu gọi là "Ôn Như Hầu", và mình biết có đôi câu đối của hai tác giả, mà mình chỉ còn nhớ một người là Ngô Thời Nhiệm (Ngô Thì Nhậm), còn người kia mình không nhớ là họ gì hình như tên là Tường thì phải câu đối như sau:
Ai Công Hầu, Ai Khanh Tướng, trong cuộc trần ai ai dễ biết
được đối là:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, thời đã thế thế thời phải thế
Gửi bởi Hưng SG ngày 14/02/2016 18:28
Có 1 người thích
Chức tước thời nhà Chu bên Trung Hoa cổ xưa, có hai loại chức tước:
- Tước phong cho chư hầu thì có Công, Hầu, Bá, Tử và Nam (tước Vương chỉ dành cho thiên tử nhà Chu). Đây là tước hiệu chỉ dành riêng cho các bậc vua chúa.
- Chức tước vua ban cho các quan trong triều đình (kể cả triều đình nhà Chu, hay triều đình chư hầu) có 5 bậc: Thượng Đại Phu, Hạ Đại Phu, Thượng Sĩ, Trung Sĩ và Hạ Sĩ. Đây là chức tước mà kẻ sĩ được chen vai vào.
Tước mà cụ Nguyễn Công Trứ nói đây là tước vua ban cho các quan; chứ không dám bàn đến tước vị vua chúa.
Gửi bởi Hưng SG ngày 14/02/2016 18:44
Có 1 người thích
Bài thơ được đăng này viết lầm.
- tịnh tà cự bí: phải là "tịch tà cự bí" mới đúng.
- Vũ trụ chi nhân gian giai phận sự, nam nhi đáo thuỷ thị hào hùng, phải viết là "Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử thị hào hùng".
Hai câu này chắc chắn là vậy. Còn câu: "Làm sao cho bách thế lưu phương", theo trí nhớ học thời còn niên thiếu, tôi nghĩ là "Làm sao cho bách tuế lưu phương". Tôi không dám chắc, vì không có sách trong tay để kiểm chứng. "bách tuế" làm cho giọng thơ đọc lên có vẻ hào hùng hơn là "bách thế".
Gửi bởi Hưng SG ngày 14/02/2016 19:57
Có 1 người thích
Nói chung về tước vị các vua quan trong triều đình nhà Chu hay triều đình các nước chư hầu, thì có sáu bậc kể theo thứ tự lớn trước nhỏ sau:
1. Vua: Vua ở triều đình nhà Chu gọi là thiên tử, tước Vương, Vua ở triều đình chư hầu mang tước Công, Hầu, Bá, Tử hay Nam, tuỳ theo nước lớn nhỏ.
2. Khanh
3. Đại Phu: Gồm có Thượng Đại Phu và Hạ Đại Phu
4. Thượng Sĩ
5. Trung Sĩ
6. Hạ Sĩ.
Từ quan Khanh tới quan Hạ Sĩ gọi chung là Khanh Sĩ.
Quan Khanh thì có Cửu Khanh 九卿. Cửu Khanh là gồm Tam Cô và Lục Khanh họp lại. Tam Cô gồm có: Thiếu Sư 少師, Thiếu Phó 少傅, Thiếu Bảo 少保. Lục Khanh là Thiên Quan Trủng Tể 天官冢宰, Địa Quan Tư Đồ 地官司徒, Xuân Quan Tông Bá 春官宗伯, Hạ Quan Tư Mã 夏官司馬, Thu Quan Tư Khấu 秋官司寇, Đông Quan Tư Không 冬官司空. Trên Cửu Khanh có Tam Công 三公 là ba vị quan phụ thần làm phụ bật cho vua. Tam Công gồm có Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保 là chức quan lớn nhất trong triều đình nhà Chu (triều đình chư hầu không có). Đó là tổng quát về quan chế thời cổ Trung Hoa.
Cho nên, 5 tước trong bài thơ Kẻ Sĩ của cụ Nguyễn Công Trứ muốn nói là 5 tước Khanh Sĩ. "Sĩ cư kỳ liệt" là như thế. Chứ sĩ đâu dám liệt vào hàng vua gồm Vương, Công, Hầu, Bá, Tử và Nam.
Gửi bởi Tran Hau ngày 09/02/2018 20:46
Hồi học lớp 9 tôi sợ nhất bài nầy. Nó khó học, khó nhớ quá vì từ vựng quá xa lạ với tiếng Việt thông thường. Nếu không thuộc bài thì ăn đòn như chơi nên ngày nào cũng phải ngồi 'tụng'. Đến khi thuộc rồi thì không thể nào quên nó được. 43 năm sau vẫn nhớ tới nó. Mỗi lần bạn bè gặp nhau hễ đứa nầy đọc một câu thì đứa kia đọc câu kế tiếp liền. Nó vô máu rồi.