北所敘情

世事浮雲,飽見狗衣變態。
利腸熱火,空教蟻悃成灰。
値此黎氏弛綱,彼西渠搆難。
乍聽烏州鼓動,踴躍驅摶虎之羣羊。
條聞龍肚鐘移,間關跟渡江之匹馬。
蚊欲奮,負山之勢,
狐擬揚,托虎之威。
存孤初學晉程嬰,轉作包胥復楚佐。
漢後希韓孺子,翻成信國囚燕。
遇機之變靡常,行事之情何暇。
萬里曾經冬雪,沐頭未剃而自髠。
十年無奈北風,吹冠不毀而盡裂。
心彷彿吐泥之蚓,身依稀投爥之蛾。
沮洳場狗塢鷄栖,樂安有地。
幽囚境鼠肝蟲臂,賊予隨天。
方寸中惟愼于從,職分內曷能無愧。
北海未生,馬角絲縈桂嶺九迴腸。
鼎湖莫逮,龍髯球滴冰天雙串淚。
公義已非敢望,私情夫復何言。
白雲鎖樹指楡枌,空囑繫書之雁。
紅日含山瞻屺岵,偏慚反哺之烏。
致使忠孝字之兩虧,爲欠逋播臣之一死。
嗟自古誰能無死,欲了分恐或傷仁。
且爲人孰不悅生,欲從權恐尤害義。
明白但循天理,雌黄奚管人言。
牛馬任其呼,無羞心卽無愧色。
龍蛇安所遇,不怨天亦不尤人。
嗚呼。
獸有首邱之狐,禽有南枝之鳥。
宋珍裴伯[耆]在昔,拱北見丹衷。
惟僚黎光賁何人,指南完素願。
而今餘生猶未冺,皓首竟何歸。
悠悠彼天,曷其有極。

 

Bắc Sở tự tình

Thế sự phù vân, bão kiến cẩu y biến thái.
Lợi trường nhiệt hoả, không giáo nghĩ khổn thành hôi.
Trị thử Lê thị thỉ cương, bỉ Tây cừ cấu nạn.
Sạ thính Ô châu cổ động, dũng dược khu đoàn hổ chi quần dương.
Điều văn long đỗ chung di, gian quan cân độ giang chi thất mã.
Văn dục phấn, phụ sơn chi thế,
Hồ nghĩ dương, thác hổ chi uy.
Tồn cô sơ học Tấn Trình Anh, chuyển tác Bao Tư phục Sở tá.
Hán hậu hy hàn nhụ tử, phiên thành Tín Quốc tù Yên.
Ngộ cơ chi biến mi thường, hành sự chi tình hà hạ.
Vạn lý tằng kinh đông tuyết, mộc đầu vị thế nhi tự khôn.
Thập niên vô nại bắc phong, xuy quan bất huỷ nhi tận liệt.
Tâm phảng phất thổ nê chi dẫn, thân y hy đầu chúc chi nga.
Trở nhự trường cẩu ổ kê tê, lạc an hữu địa.
U tù cảnh thử can trùng tí, tặc dư tuỳ thiên.
Phương thốn trung duy thận vu tòng, chức phận nội hạt năng vô quý.
Bắc hải vị sinh, mã giác ti oanh quế lĩnh cửu hồi trường.
Đỉnh hồ mạc đãi, long nhiêm cầu tích băng thiên song quán lệ.
Công nghĩa dĩ phi cảm vọng, tư tình phu phục hà ngôn.
Bạch vân toả thụ chỉ du phần, không chúc hệ thư chi nhạn.
Hồng nhật hàm sơn chiêm Dĩ Hỗ, thiên tàm phản bô chi ô.
Trí sử trung hiếu tự chi lưỡng khuy, vi khiếm bô bá thần chi nhất tử.
Ta tự cổ thuỳ năng vô tử, dục liễu phận khủng hoặc thương nhân.
Thả vi nhân thục bất duyệt sinh, dục tòng quyền khủng vưu hại nghĩa.
Minh bạch đãn tuần thiên lý, thư hoàng hề quản nhân ngôn.
Ngưu mã nhậm kỳ hô, vô tu tâm tức vô quý sắc.
Long xà an sở ngộ, bất oán thiên diệc bất vưu nhân.
Ô hô!
Thú hựu thủ khâu chi hồ, cầm hựu nam chi chi điểu.
Tống Trân Bùi Bá [Kỳ] tại tích, củng bắc kiến đan trung.
Duy Liêu Lê Quang Bí hà nhân, chỉ nam hoàn tố nguyện.
Nhi kim dư sinh do vị mẫn, hạo thủ cánh hà quy.
Du du bỉ thiên, hạt kỳ hữu cực.

 

Dịch nghĩa

Việc đời như mây nổi, thấy thay đổi áo trắng chó xanh cũng đã chán rồi
Ruột gan như lửa đốt, thân kiến nhỏ bỗng chợt hoá thành tro
Họ Lê nay mất cả mối giềng, cũng bởi giặc Tây kia gây nạn
Bỗng nghe châu Ô rầm rập, hung hăng xua đàn hổ xé bầy dê
Lại thấy Long đỗ chuông kêu, vượt ải thúc ngựa bầy cùng theo gót
Sức muỗi muốn vùng lên nhưng thế đà vác núi
Thân cáo định phô trương mượn dáng hổ dương oai
Tưởng học Trình Anh nước Tấn cứu con côi, lại thành Bao Tư mong khôi phục nước Sở
Sau Hán mong làm đứa trẻ đất Hàn, lại ra Tín Quốc tù ở bên Yên
Gặp cơ phải biến theo vua, hành sự có đâu rảnh rỗi
Vạn dặm qua đông tuyết giá, gội đầu chưa cắt tóc đã thưa
Mười năm không sợ Bắc phong, thổi mũ không hư mà tự hỏng
Lòng mơ hồ như giun ở đất sâu, thân chẳng khác bướm đêm vào đuốc
Lầy lội như cũi chó chuồng gà, an nhàn đất ấy
Ngục đen cảnh gan chuột tay trùng, tử sinh trời vậy
Tấc lòng nay dè dặt mà theo, chức phận thấy cốt sao không thẹn
Bể bắc chưa sinh sừng ngựa, ruột gan vấn vít nhớ mẹ cha
Đỉnh hồ nào níu râu rồng, dòng lệ chan hoà khi giá buốt
Vì công nghĩa nên phải bỏ tư tình, nói gì được nữa
Mây trắng che phủ cảnh du phần, nhạn nào mang thư cho được
Mặt trời hồng ngậm núi xem Dĩ Hỗ, càng thẹn với quạ đen bú mớm
Xem ra trung hiếu hai đàng đều thiếu, lại không dám chết kém cả kẻ bô thần
Than ôi! Đời xưa nay có ai là không chết, muốn kết liễu lại sợ tổn đến đức nhân.
Phận làm người ai cũng đều ham sống, muốn tòng quyền thì e hại điều nghĩa
Sáng tỏ để theo thiên lý, mặc ai nói chuyện thư hoàng
Dẫu gọi mình là trâu là ngựa, lòng không thẹn thì mặt không hổ
Dẫu rồng rắn gặp cảnh nhi an, không oán trời mà cũng chẳng trách người
Ô hô!
Thú có cáo biết quay đầu về núi, cầm có chim biết đậu ở cành nam
Tống Trân, Bùi Bá Kỳ đời trước, quay về bắc để thấy đan trung
Duy Liêu, Lê Quang Bí là ai, chỉ về nam mong thành tâm nguyện
Nay kiếp sống thừa còn chưa hết, tóc bạc biết lúc nào về
Trời xanh kia thăm thẳm, bao giờ mới hết.


Dịch nghĩa của Nguyễn Duy Chính.

Bài phú này làm trong thời gian Lê Quýnh cùng bốn người bị giam trong ngục ở Bắc Kinh. Rằm tháng giêng năm Kỷ Mùi (1799) thượng hoàng Cao Tông (tức vua Càn Long) mới qua đời nên triều đình phương bắc không cho thắp đèn, Lê Quýnh pha trà viết bài này.

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]