Huân đức ký hạ suy, Văn chương diệc lăng di. Đãn kiến sơn trung thạch, Lập tác lộ bàng bi. Minh huân tất Thái Công, Tự đức giai Trọng Ni. Phục dĩ đa vi quý, Thiên ngôn trị vạn ty. Vi văn bỉ hà nhân, Tưởng kiến hạ bút thì. Đãn dục ngu giả duyệt, Bất tư hiền giả xuy. Khởi độc hiền giả xuy, Nhưng truyền hậu đại nghi. Cổ thạch thương đài tự, An tri thị quý từ! Ngã văn Vọng Giang huyện, Cúc lệnh phủ quỳnh ly, Tại quan hữu nhân chính, Danh bất văn kinh sư. Thân một dục quy táng, Bách tính già lộ kỳ. Phan viên bất đắc quy, Lưu táng thử giang my. Chí kim đạo kỳ danh, Nam nữ thế giai thuỳ. Vô nhân lập bi kiệt, Duy hữu ấp nhân tri.
Dịch nghĩa
Công dức đã sút kém Văn chương cũng suy đồi Vẫn thấy tấm đá lấy từ trong núi Dựng thành bia bên đường Ghi công đều là Thái Công Kể đức đều là Khổng Ni Càng nói nhiều lại càng đắt Một nghìn chữ, thuê hàng vạn đồng rồi Người viết văn là ai đó? Tưởng chừng lúc hạ bút Chỉ cốt sao đẹp lòng kẻ ngu Không nghĩ đến người hiền đức chê cười Chẳng những người hiền đức chê cười Mà còn đánh lừa đời sau nữa Những chữ phủ rêu xanh trên tấm đá cổ Ngờ đâu lại là những lời đáng thẹn! Ta nghe nói ở huyện Vọng Giang Có ông huyện Cúc biết thương cả từ người con côi vợ góa Khi làm quan có chính sự nhân từ Mà tiếng tăm không đến nơi Kinh đô Đến khi mất, muốn đem về quê chôn Nhân dân đón ở ngã ba đường Níu xe tang không để đưa về Giữ lại chôn tại bên sông nọ Đến nay nhắc đến tên ông Trai gái đều rơi lệ Chẳng ai dựng bia đá cả Chỉ có người hàng huyện là biết
秦中吟其六-立碑 Tần trung ngâm kỳ 06 - Lập bi
Khúc ngâm đất Tần kỳ 06 - Lập bia
勳德既下衰, Huân đức ký hạ suy, Công dức đã sút kém
文章亦陵夷。 Văn chương diệc lăng di. Văn chương cũng suy đồi
但見山中石, Đãn kiến sơn trung thạch, Vẫn thấy tấm đá lấy từ trong núi
立作路旁碑。 Lập tác lộ bàng bi. Dựng thành bia bên đường
銘勳悉太公, Minh huân tất Thái Công, Ghi công đều là Thái Công
敘德皆仲尼。 Tự đức giai Trọng Ni. Kể đức đều là Khổng Ni
復以多為貴, Phục dĩ đa vi quý, Càng nói nhiều lại càng đắt
千言值萬貲。 Thiên ngôn trị vạn ty. Một nghìn chữ, thuê hàng vạn đồng rồi
為文彼何人, Vi văn bỉ hà nhân, Người viết văn là ai đó?
Đức nghiệp ngày mỗi kém, Văn chương cũng dần suy. Chỉ thấy phiến đã núi, Bên đường dựng thành bia. Kể tài đều Thái Công, Kể đức thảy Khổng Ni. Lại cốt nói cho lắm, Nghìn chữ, vạn đồng thuê! Viết văn ai đó tá? Tưởng lúc cầm bút đề, Cốt sao kẻ ngốc thích, Không dè người biết chê! Há những người biết chê, Còn truyền một mối nghi: Ai ngờ văn bia cổ, Lời lẽ chẳng ra gì! Nghe ông Cúc, huyện Vọng, Thương quả phụ, cô nhi. Làm quan có nhân chính, Tiếng chẳng đến vua nghe. Chết đưa về quê táng, Trăm họ đón đường đi. Cùng níu xe giữ lại, Chôn ở mé sông kìa! Đến nay nhắc tên họ, Trai gái lệ đầm đìa. Chẳng ai lập bia cả. Người huyện nhớ như ghi!
Công đức đã xem chừng xút kém, Văn chương thì suy giảm lắm thay. Mà sao đem đá núi này, Dựng bia chất ngất ở ngay bên đường. Công thì sánh Thái Công, kể lể, Đức thì ngang Khổng Tử, tôn lên. Càng dài, càng trả nhiều tiền, Giá bạc muôn, chỉ một nghìn chữ ranh. Kẻ nào đã làm văn này nhỉ? Tưởng đến khi bút hạ vân vi. Cốt vừa lòng kẻ ngu si, Nghĩ gì đến chuyện khen chê ở đời. Người hiền đức ngậm ngùi trách móc, Còn bịp lừa cả lớp người sau. Chữ trên đá cũ phủ rêu, Chuốc mua hổ thẹn những câu văn này. Quan huyện Vọng, chuyện hay còn đó, Thương đến từ vợ goá, con côi. Làm quan, nhân nghĩa tột vời, Tiếng tăm, đâu có đến nơi đế thành. Khi mất, định về làng chôn cất, Ngã ba đường, dân biết đến ngăn. Níu ghì bằng được xe tang, Giữ chôn ở cạnh sông làng, bờ bên. Mỗi khi nhắc đến tên huyện Khúc, Gái trai đều nước mắt chứa chan. Dẫu không bia đá bên đường, Mà dân trong huyện đội ơn mấy đời.
Nguồn: Thơ Bạch Cư Dị, Ngô Văn Phú, NXB Hội nhà văn, 2006
Trong khi đạo đức đã suy tàn, Là lúc văn chương cũng nát tan. Lại thấy trong non kia tấm đá, Được làm bia dựng ở bên đàng. Ghi công dày tựa Thái Công trước, Thêm đức cao như Khổng Tử an. Thiển nghĩ chữ nhiều là quý báu, Ngàn câu khắc tính vạn tiền vàng. Người nào đã lập khổ văn đây, Hạ bút cứ nhầm tưởng đấy thay. Cần đẹp lòng người ngu cậy cục, Nghĩ đâu kẻ trí lại chê cười. Chẳng riêng kẻ trí cười chê vậy, Sau để cháu con thắc mắc hoài. Chữ khắc trên bia rêu phủ biếc, Nào hay hỗ thẹn đến sau này. Ta nghe huyện Vọng Giang đây có, Quan Khúc lệnh chăm kẻ goá côi. Chính trực nhân từ khi tại chức, Kinh kỳ tiếng xấu chẳng tăm hơi. Người qua đời muốn chôn quê cũ, Dân chúng chặn đường cản trở lui. Họ kéo càng xe cùng giữ lại, Trọng tình chôn cất mạn sông đây. Tới nay nghe nhắc tên ông ấy, Ai cũng lệ tràn, dẫu gái trai. Không kẻ lập bia ghi phúc đức, Dân tình mến khắc cõi lòng thôi.
Đạo đức đã biến suy Văn chương lại tàn rụi. Hễ thấy đá tren núi Làm bia dựng đường đi Kể công như ông Thái Đức cao tựa Trọng Ni. Nghĩ chữ nhiều là quý Ngàn câu vạn bạc chi. Người nào viết văn bài Hạ bút chỉ nghĩ ngay Làm đẹp lòng người dốt Để người trí cười hoài. Không những người trí cười Còn mối nghi để đời. Rêu xanh phủ đá cổ Đâu biết hổ quá lời. Nghe quan Khúc Vọng Giang, Lo goá phụ côi cút. Quan nhân từ chính trực Tên tuổi chẳng truyền loan. Chết muốn về quê táng Dân chúng cản đường đi Giữ xe, níu kéo cáng. Để chôn cạnh sông này. Nay hễ nhắc tên ông Gái trai rơi nước mắt Không lập bia công khắc Chỉ thị dân ghi lòng.
Vào lúc đã suy đồi đạo đức Lại văn chương cũng nát tan lìa Trong non tấm đá đằng kia Được đem ra dựng làm bia bên đường Ghi khắc công lớn dường họ Thái Đạo đức cao tựa phái Trọng Ni Chữ nhiều là quý nên ghi Cả hàng ngàn chữ, tiếc gì tiền nong Người nào đó trong khi hạ bút Viết bài văn đã ức tưởng rằng: Chỉ làm đẹp ý khách hàng Nghĩ đâu người trí nay đang chê cười Không những làm chê cười người trí Còn truyền nghi kỵ tới đời sau Chữ ghi trên đá xanh màu Đâu dè là những lời đau hổ lòng Ta nghe nói Vọng Giang quan huyện Họ Khúc làm đầu huyện thương dân Nhân từ chính trực chuyên cần Tham quan không thấy truyền loan kinh kỳ Khi mất muốn về quê an táng Nhưng chúng dân đứng án trên đường Níu càng xe buộc phải ngừng Rồi cùng chôn cất bên sông chỗ này Cho tới nay tên ngài hễ nhắc Là gái trai thương tiếc khóc ròng Không ai bia lập tuyên công Chỉ dân ghi khắc trong lòng mà thôi.
Công đức ngày kém cỏi Văn chương càng suy đồi Bên đường phiến đá núi Dựng bia lưu công ghi Kể đức ngang Khổng Tử Kể tài sánh Thái Công Nói nhiều giá thêm đắt Nghìn chữ thuê vạn đồng Người viết văn là ai Tưởng đến khi cầm bút Cốt được lòng kẻ ngu Người hiền sao khỏi bực Người biết còn chê cười Lưu truyền mối nghi lớn Đá cổ phủ rêu xanh Sao còn ghi bia dỏm Nghe huyện Vọng, ông Cúc Thương vợ goá con côi Làm quan rất nhân chính Tiếng tăm trong vùng thôi Chết đưa về quê chôn Dân ra đường nghênh đủ Cùng giữ lại xe tang Mồ bên sông, yên ngủ Nay nhắc đến tên ông Gái trai bưng mặt khóc Nào ai dựng bia đâu Cả huyện đều nhớ hết