(Dùng chữ trong Truyện Kiều)

Non khơi nước thẳm, lạc bước phù tang;
Đất thấp trời cao, đau lòng trắc dĩ.

Nỗi nhà báo đáp, tội con vâng biết đã nhiều;
Cõi khách xa xăm, cơ tạo nghĩ đâu ra thế.

Ngày vĩnh quyết cách lời khuất mặt, tấc lòng nào thương nhớ có nguôi;
Công dưỡng sinh tạc dạ ghi lòng, trăm thân dẫu đền bồi chưa dễ.

Những tưởng:
Trời còn rộng, đất còn dài;
Thông còn tươi, huyên còn khoẻ.

Nhà mai trúc một đoàn sum họp, theo đòi dưới trướng đã đông người;
Sân quế hoè đôi chút thơ ngây, thay đỡ việc mình không thiếu kẻ.

Thương nỗi chiếc thân ngày tháng, nghiên bút ít nhiều cũng có, kiếp trần mong rũ sạch cho xong;
Xót lòng tựa cửa hôm mai, bỗng vì quạnh quẽ bấy lâu, đường mây nghĩ bước đi cho nhẹ.

Thấy giữa đường đang lắm nỗi bất bình;
Nhìn trong cuộc phải chọn người tri kỷ.

Ngày xuất cáo chưa kịp lời thưa nói, những là tưởng dưới nhà trên nước, khắc xương chép dạ, biết đâu mà gửi dạ can tràng;
Bước viễn du không kịp tính gần xa, những là toan lấy hiếu làm trung, nhắm mắt đưa chân, phần nào có tưởng đâu vui tẻ.

Lìa nhà lìa cửa, chiếc gánh quan san;
Một nước một trời, mảnh buồm thu thuỷ.

Phần e đường sá còn xa;
Phần sợ bóng dâu đã xế.

Khi trên thác dưới ghềnh, khi ra khơi vượt biển, trông vời cố quốc, lòng tư thân một bước một đau;
Khi chân mây mặt sóng, khi cữ gió tuần mưa, đoái dặm tử phần, nỗi viễn khách càng thương càng nhớ.

Khi thì thương nhà huyên, tuyết chở sương che, vì nuôi con những rày ao mai ước, những tưởng liều một giọt làm cho thiên hạ, lấy trân cam mà bổ lại đắng cay;
Khi thì thương nhà thông, da mồi tuổi bạc, gặp nước nhà còn khe khắt lạ lùng, những toan đem tấc cỏ quyết đền ba xuân, dẫu phiền muộn phải lo cho mát mẻ.

Nào ai nghĩ:
Nỗi xa còn khuất mấy ngàn xanh;
Việc nhà bỗng gặp cơn dâu bể.

Khi được tới tàu vừa đổ bến, đèo Hải Vân theo quán dịch lân la;
Tin đâu như sét đánh lưng trời, nghe từ mẫu dã sân Lai văng vẻ.

Đau đớn nhẽ nhà huyên nỗi hơi đồng giá ngắt, non nước bao xa cách trở, biết đâu ngọt bùi biết đâu ấm lạnh, những ai vì săn sóc thuốc thang;
Ngậm ngùi thay nhà thông khi tuổi hạc đã cao, công trình kể xiết mấy mươi, nào là khâm liệm nào là tang trai, những ai giúp sắm sanh tang tế.

Nghĩ lại từ phen lưu lạc, ngoài nghìn dặm chốc ba đông, bên trời góc biển, bốn phương trông may trắng tuyệt vời;
Xiết bao kể nỗi thảm sầu, đĩa dầu vơi nước mắt đầy, bão gió tuôn mưa, một mình những canh chầy âm ỷ.

Vì bởi chuyện xa gần tan hợp, những chịu năm chờ tháng đợi, con tơ còn vương mối chưa xong;
Cũng biết điều khinh trọng phải chăng, mà theo gió bắt mưa cầm, chim lồng dẫu cất mình khôn nhẽ.

Nỗi thương nói chẳng hết lời;
Tình sự khóc than khôn kể.

Sao lúc trước tới nhà huyên, đã lũ trẻ gieo mình dưới gối, lại bầy em trông mặt trao tay;
Sao lúc giờ tới nhà huyên, ngoài thì trông nấm đất bên đường, trong những sớ chiêu hồn thiết vị.

Sao lúc trước tới nhà huyên, tiêu hao vẫn gạn gùng nguồn ngọn, hỏi nỗi tha hương lữ khách, sự duyên tường kẽ tóc chân tơ;
Sao lúc giờ tới nhà huyên, chiêm bao như liệu tưởng đi về, căm lòng tử biệt sinh ly, phong cảnh luống trông vời gạt lệ.

Biết trăm sự tại khuôn thiêng lừa lọc, những tự cơn binh lửa tới gặp nhà tang tóc, vì bởi quá chân nên nỗi, dẫu sự mình nào dám nói năng;
Tưởng một đời như giấc mộng mơ màng, đã cam phụ quỷ thần lại thẹn với non sông, thà rằng một thác cho rồi, dẫu miệng thế cũng mặc người phi thị.

Cực vì nỗi lòng trên trông xuông, trước còn một chút nhà thông;
Thương vì đưòng máu chảy ruột mềm, sau đó đôi ba đàn trẻ.

Kiếp phong trần còn lắm chuyện nhân gian;
Duyên hội ngộ chưa đền ơn quôc sĩ.

Trót đã ngổn ngang trăm mối, chưa dứt tình kia hiếu nọ, cõi đời sao khỏi phụ người ta;
Cũng liều đầy đoạ chiếc thân, sao cho trong ấm ngoài êm, cuộc thế mới trả xong ân nghĩa.

Bây giờ:
Đức cù lao trông chín chữ chưa đền;
Lời nguyền ước nhớ ba sinh chưa phỉ.

Bình bồng vừa khỏi chút xa xăm;
Sinh tử lấy chi làm đáp để.

Rầy lần mai lữa, cách năm vừa trở bước về quê;
Đêm thẳm ngày dài, một chén để trước mồ dâng lễ.

Trên linh vị giải hết lòng cao thấp, hương khói trông theo nào thấy nữa, tấm son gột rửa đến bao giờ;
Dưới tuyền đài sau có lúc thần hôn, suối vàng may hoạ biết ra cho, nỗi nước dần dà xin liệu sẽ.

Than ôi:
Đất có dầm mưa;
Sông trăng quạnh quẽ.

Mây bay hạc lánh, dặm ngất mù khơi;
Vượn hót ve kêu, canh khuya rầu rĩ.

Trong nhà cửa trước sau đầy tớ, về nhìn coi đủ mặt người;
Bước giang hồ ràng buộc áo xiêm, giở đến còn vương tơ chỉ.

Trải mấy ác tà thỏ lặn, trăm năm để một tấm lòng con;
Dẫu rằng sông cạn đá mòn, muôn kiếp trả nào xong nghĩa mẹ.

Thượng hưởng!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]