Trang trong tổng số 13 trang (123 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thạch Hãn giang (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Tam Ngng

Trên dòng Thạch Hãn chuyến đò ngang,
Lấp loá non xa ánh ráng vàng.
Trận gió tây đâu tung bụi bẩn,
Hết rồi một thủa nước trong xanh.

Ảnh đại diện

Thạch Hãn giang (Nguyễn Khuyến): Hãn trong Thạch Hãn Giang chữ hán viết thế nào

Không biết tác giả Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến đã dựa vào nguồn tài liệu nào để ghi Hãn trong Thạch Hãn là 澣.
澣 vốn đọc là hoãn (zdic 澣: 【廣韻】【正韻】胡管切 Quảng vận, Chính vận: hồ quản thiết >> đọc là hoãn), có nghĩa là giặt, như hoán 浣.
Trên Thuần đỉnh có hình sông Thạch Hãn, được ghi chú là 石捍江, trong đó hãn được viết là 捍, có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn.


https://blogger.googleusercontent.com/img/a/AVvXsEgLjTCmAF28z-AuB78wjmUy4usS9d3lc83iuVKP48_M1eoXQoR9E1esNSAEc1BQkK2elwPthTxtnyKkWCqQAEk-rBQnLBgSJlG_vUVKwzv68PYc2ZdA5NMfIV0tdstXyCPoPJBATgdaQKi0C05bYmvjLEjFEbrP1XaGSl-SGPmZ1OF-Qtp4Ec4_pK79-Q
Hình Thạch Hãn Giang 石捍江 trên Thuần đỉnh (Huế)
Ảnh đại diện

Sơ đầu (Cao Bá Quát): Bản dịch của Tam Ngng

Ngẫm thẹn một đời đọc vạn thư,
Trải bao gió bụi tóc thêm thưa.
Tóc, lòng há phải tranh dài ngắn,
Tóc xác xơ lòng cũng xác xơ.

Ảnh đại diện

Biệt Trừ (Âu Dương Tu): Bản dịch của Trần Trọng San

Rực rỡ ánh hoa, rờn sáng liễu,
Bên hoa rót rượu tiễn ta đi.
Cũng chỉ say sưa như mọi bận,
Sáo đàn đừng nổi tiếng chia ly!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thanh minh (Vương Vũ Xứng): Nghĩa bài thơ

Nghĩa
Trãi qua tiết Thanh minh không rượu không hoa,
Thích thú với sự sơ sài lặng lẽ như vị sư nơi hoang vắng.
Hôm qua sang hàng xóm xin lửa mới,
Sáng sớm lấy lửa ấy đốt đèn đọc sách bên song cửa.

Chú thích:
興味:興趣、趣味。Hứng vị: hứng thú, thú vị.
蕭然 Tiêu nhiên: lặng lẽ, sơ sài.
新火 Tân hoả: lửa mới. Tục thời Đường thời Tống, một ngày trước tiết Thanh minh thì cấm lửa không nấu nướng, đến tiết Thanh minh thì nhóm lửa nấu ăn lại, gọi là “tân hoả” (lửa mới).
分與 phân dữ: chia (lửa mới xin được) cho (cây đèn).

Ảnh đại diện

Đề thi hậu (Giả Đảo): Nghĩa chữ thu 秋 trong câu cuối

歸臥故山秋
Quy ngoạ cố sơn thu
Trong các bản dịch nghĩa. dịch thơ trên đây, thu 秋 đều được hiểu là mùa thu. Và câu thơ được hiểu là Mùa thu về núi cũ nằm.
Nếu Giả Đảo viết bài thơ này vào mùa thu thì chữ thu bị thừa. Một người ưa thôi xao như ông chả lẽ lại dùng chữ thừa? Nếu ông làm bài thơ vào mùa đông, mùa xuân hay thậm chí là mùa hạ thì tôi thật không hiểu sao ông đang buồn vì không có tri âm như thế, không bỏ về núi ngay mà phải chờ đến thu?
Thu 秋 ngoài nghĩa là mua thứ ba tong năm, còn có nghĩa là buồn.
Zdic cho nghĩa:
秋 qiū 〈形〉(1) 悲愁 [sad]
秋之为言愁也。——《礼记·乡饮酒义》Thu chi vi ngôn sầu dã: Thu là nói buồn vậy (Lễ Kí).
Vì vậy câu 4, theo tôi, có lẽ nên hiểu là: Buồn về núi cũ nằm.
Tạm dịch cả bài:
Hai câu mất ba năm,
Đọc lên nước mắt tràn.
Bạn như không thấy thích,
Buồn núi cũ về nằm.

Ảnh đại diện

Vô đề (Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong) (Lý Thương Ẩn): Nghĩa hai câu 5-6

Xin góp ý thêm về nghĩa hai câu 5-6
Cách toạ tống câu xuân tửu noãn,
Phân tào xạ phúc lạp đăng hồng.
Tống câu: trò chơi xưa bên Tàu. Người chơi chia thành hai tổ (phân tào) ngồi cách nhau (cách toạ), người trong mỗi tổ chuyển một cái móc (tống câu) cho nhau, cuối cùng dấu trong tay một người nào đó. Tổ nào chỉ trúng chỗ giấu móc (xạ phú) của tổ kia thì thắng.

Ảnh đại diện

Thanh bình điệu kỳ 2 (Lý Bạch): Nghĩa câu 2

Câu 2: 雲雨巫山枉斷腸。
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
được hiểu là “Chuyện mây mưa ở Vu Sơn chỉ luống đau lòng” thì khá tối nghĩa.
Theo tôi, 雲雨巫山 là chỉ vị thần nữ nổi tiếng ở Vu Sơn. Câu này muốn nói là vị thần nữ này nếu đem so với nàng Dương quý phi thì cũng chỉ thêm đau lòng (vì kém sắc).

Nghĩa cả bài.
[Nàng như] một cành màu hồng đẹp đọng sương thơm,
Thần nữ Vu Sơn [so với nàng] chỉ phí công đau lòng mà thôi.
Thử hỏi trong cung Hán có ai sánh được,
[kể cả] nàng Phi Yến đáng thương cũng phải nhờ vào trang điểm mới có thể so.

Ảnh đại diện

Thái Sơn Lương Phủ hành (Tào Thực): Nghĩa câu 4

Câu 4. 寄身於草野。Kí thân ư thảo dã.
寄身:居住,生活。草野:野外、原野。
Như vậy câu 4 này, theo tôi, nên hiểu là: Nương thân nơi đồng hoang.
Không phải: Tấm thân sống gửi như cỏ hoang, hay thân gửi tựa cỏ hoang.

Ảnh đại diện

Minh Đạo gia huấn (Trình Hạo): Sai chữ

Câu áp chót: 十金遺子
Bản dịch âm: Thiên kim di tử.
Sửa: 十 thành 天 hoặc 千 mới đúng bản dịch âm.
Và hợp lí. 十金 tức 10 lượng vàng, thì ít quá, thực không bằng một quyển sách cổ. Nhiều quyển sách cổ nay đắt lắm.

Trang trong tổng số 13 trang (123 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: