TÂM TÌNH NGHI VẤN (nghi tình):

- Đại Ứng quốc sư nói: Chỉ có một câu mà thiền gia nên ra sức công phu và tìm thấy giải đáp chung quyết là “Bổn lai diện mục của ta là gì?”.

- Thiền sư Không Cốc Long nói rằng, thiền giả đừng quên mang vào mình cái tư tưởng này: “Tâm này còn tạo tác khi thân này còn tồn tại trong hiện hữu như huyễn của nó, nhưng nó sẽ an trú nơi đâu khi xác thân này ra tro bụi?”. Để thấy cái Một của vạn pháp rốt ráo ở đâu, người học phải phản quan tự chiếu và đặt nghi tình vào vấn đề để quyết định nơi chốn của nó là đâu.

- Thiền sư Lâm Tế giảng giải: “Chính vì tâm người mãi đuổi tìm mọi vật không biết kềm hãm lại ở đâu, vì vậy tổ sư dạy rằng: các người điên rồ mang đầu đi tìm đầu. Theo lời dạy, các người hãy hồi quang phản chiếu, không tìm cầu đâu khác, các người sẽ thấy ra rằng tâm mình cùng với Phật và Tổ không khác. Đến chỗ vô sự như thế mới gọi là đắc pháp”.

- Những điểm đặc sắc mà tôi muốn ghi nhận nơi trường hợp của Huệ Khả là: ngài là người học thức; không hài lòng với sách vở mà muốn nắm bắt cái gì đó ở nội tâm; hết sức nhiệt thành kiếm tìm chân lí sâu xa để an ổn tâm mình; sẵn sàng hi sinh tất cả cho mục đích ấy; trải qua nhiều năm cần khổ để định rõ cái gọi là tâm, vì cố nhiên, theo truyền thống, ngài nghĩ rằng có một cái “tâm” ở giữa lòng hiện hữu của mình, và khi mà bắt được tâm này thì nguyện vọng sẽ thành tựu.
(…) Tâm, Phật tính hay Vô thức là gì mà lúc nào cũng bị che dấu sau những thiên sai vạn biệt, mà chúng ta cảm thấy nó ở ngay trong lòng mình? (D.T.Suzuki).

- “Ngộ là thước đo của Thiền” như một tôn túc đã nói. Ngộ không phải là một trạng thái an tĩnh không thôi; nó không phải là sự thanh thản mà là một kinh nghiệm nội tâm không có dấu vết của tri thức; phải là sự thức tỉnh nào đó phát khởi từ lãnh vực đối đãi của tâm lí, một sự trở chiều với hình thái bình thường của kinh nghiệm vốn là đặc tính đời sống thường nhật của chúng ta. Thuật ngữ của Đại thừa gọi đó là Chuyển y (Paravritti), quay trở lại hay lật ngược ra cái cơ sở tâm ý, ở đây toàn bộ kiến trúc tâm thức trải qua một cuộc đổi thay toàn diện. Điều kì diệu là một cái thấy của Ngộ (satori) có thể gây ra một lần tái tạo như thế trong cái nhìn của tâm linh. Nhưng các kí lục của Thiền minh chứng điều này có thực. Do đó sự phát khởi của Bát-nhã ba-la-mật, một biệt danh của Ngộ, là tinh yếu của Thiền. (Lời của Thiền sư học giả Daisetz Teitaro Suzuki).

(Thiền luận II; D. T. Suzuki; Tuệ Sỹ dịch).
--

Thiền sư Lâm Tế nói:
"Các Đại đức, ba cõi bất an như ngôi nhà rực lửa. Đây không phải là nơi dừng nghỉ lâu dài của các ngài. Con quỷ vô thường dữ tợn đến từng khoảnh khắc, chẳng lựa sang hèn, già trẻ. Nếu các ngài muốn cùng Phật và Tổ không khác, đừng săn đuổi bên ngoài. Ánh sáng thanh tịnh trên một niệm tâm của các ngài, chính là Pháp thân Phật ngay trong mình đó. Ánh sáng vô phân biệt trên một niệm tâm của các ngài, chính là Báo thân Phật ngay trong mình đó. Ánh sáng vô sai biệt trên một niệm tâm của các ngài, chính là Hoá thân Phật ngay trong mình đó. Ba thân này không gì khác hơn là kẻ đang nghe pháp của ta ngay trước mặt các ngài bây giờ đó. Chỉ cần đừng dong ruổi bên ngoài thì có công dụng ấy.
(...)
Cổ nhân nói: "Thân nương tựa nghĩa mà lập, quốc độ nương tựa thể mà luận". Vậy Pháp tánh thân và Pháp tánh độ rõ ràng là những phản ánh của Ánh sáng (bản hữu). (...) Kẻ ấy là cội nguồn của hết thảy chư Phật và là quê nhà của các đạo lưu khắp nơi. Cái sắc thân tứ đại của các ngài không biết nói pháp và nghe pháp (...); chính là cái sờ sờ trước mắt các ngài đấy; cái đó không có hình dạng (...)".

(Thiền luận III, D. T. Suzuki; Tuệ Sỹ dịch).
------------

THI-KỆ TRỰC NGỘ TÁNH KHÔNG
(Tánh Không: Tánh Viên Giác, Tâm Không, Tâm vô ngã, bản thể vô tướng của vũ trụ, trường tiềm năng, Như Lai tạng, cội nguồn thực tính Chân-Thiện-Mĩ, Niết bàn, Phật tính, tri giác như thực, Chân Không-diệu hữu, định-tuệ bất nhị).
(KHÔNG có nghĩa là: hiện tiền trạng thái tâm trí đã chấm dứt vọng tưởng vô minh-kiến chấp, hiện tiền tri kiến như thực, thực tại như thực).

1.
Trên nghìn đỉnh núi một gian nhà
Một nửa cho mây một nửa ta
Đêm rồi gió thổi mây đi mất
Tính lại sao nhàn bằng lão gia.

(Thiền sư Quy Tông; sư trụ trì tại một thảo am cô tịch trên Lư Sơn. Theo Thiền Luận-quyển trung; thiền sư học giả Daisetz Teitaro Suzuki; thượng toạ Tuệ Sỹ dịch).
-----

2.
Mưa tạnh mây quang nắng bừng lên
Núi non như vẽ vời vợi xanh
Tu Bồ Đề ngồi hang, không biết
Hoa trời như mưa đất rung rinh.

(Thiền sư Tuyết Đậu; theo sách đã dẫn. “Không biết” mang tâm ấn của Thiền, đừng hiểu theo nghĩa “không biết” thông thường).

(Cùng chỉ điểm chỗ sơ ngộ chánh giác, tức minh tâm kiến tánh, ngài Huệ Khả nói “Rõ ràng thường biết”, còn ngài Bồ Đề Đạt Ma thì nói “Không biết”. Cần quán tâm để thấy chỗ này, và tiếp tục hành thâm “định tuệ bất nhị”).
-----

3.
Lão Bàng không cần gì trong thế gian
Tất cả đều Không, một chỗ ngồi cũng Không
Cái Không rốt ráo ngự trị trong nhà ông
Không tất cả vì không tài sản

Khi mặt trời lên ông đi trong Không
Khi mặt trời lặn ông ngủ trong Không
Ngồi trong Không ca một bài ca Không
Vài bài ca Không vang dội trong Không

Đừng kinh ngạc vì cái Không rất Không
Vì Không là chỗ ngồi của chư Phật
Người thế gian không hiểu được Không
Nhưng Không là kho tàng chân thật
Nếu bảo là không có Không
Tức là huỷ báng chư Phật.

(Thiền sư cư sĩ Bàng Uẩn; theo sách đã dẫn. Xin đừng hiểu “không tài sản” theo nghĩa thông thường; đó là cái thấy của trạng thái tâm vô ngã, không chấp về ngã sở).
-----

4.
Ba chục năm nay tìm Kiếm Khách
Bao hồi lá rụng với cành trơ
Một lần từ thấy hoa đào đó
Cho đến ngày nay hết cả ngờ.

(Thiền sư Linh Vân; theo sách đã dẫn. "Kiếm Khách" ở đây là Trí Bát Nhã).
-----

5.
Thánh đế rỗng thênh
Làm sao biết trúng

Đối trẫm là ai
Lại bảo chẳng biết

Nhơn đây đêm sang sông
Há khỏi sanh gai góc

Người cả nước mời chẳng trở về
Muôn đời ngàn đời nhớ nhau rỗng

Thôi nhớ nhau
Gió mát khắp nơi nào có tột.

(Thiền sư Tuyết Đậu. Trích trong Bích Nham Lục; thiền sư Thích Thanh Từ dịch và giảng).
--
(Công án: Lương Võ Đế hỏi Đại sư Đạt Ma: Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa? Đạt Ma đáp: Rỗng thênh không Thánh. Vua hỏi: Đối trẫm là ai? Đạt Ma đáp: Chẳng biết. Vua không khế hội. Đạt Ma bèn sang sông đến Nguỵ. Sau vua đem việc này hỏi Hoà thượng Chí Công. Chí Công tâu: Đây là Quan Âm Đại sĩ truyền tâm ấn Phật. Vua hối hận sai sứ đi thỉnh trở lại. Chí Công tâu: Chẳng những bệ hạ sai sứ đi thỉnh chẳng được, dù người trong cả nước đi thỉnh y cũng chẳng trở lại).
--
(Bích Nham Lục và một số sách Thiền kể lại rằng, ngài Bồ Đề Đạt Ma đến nước Nguỵ, ẩn cư nơi cô tịch, “diện bích” chín năm. Sau đó truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, rồi “lẻ dép về Tây bặt dấu luôn”. Ngài được tôn vinh là Sơ tổ Thiền tông.
Bài kệ nổi tiếng của Ngài: “Bất lập văn tự / Giáo ngoại biệt truyền / Trực chỉ nhân tâm / Kiến tánh thành Phật”).
------

Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn sưu tầm.
--
Và xin góp thêm vài lời sau đây:

“Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn. Ngài muốn cho chúng ta BIẾT và THẤY năm uẩn. Thế giới loài người của chúng ta là sự hiện hữu của năm uẩn. Và trừ khi chúng ta BIẾT và THẤY được năm uẩn này, nếu không thì chúng ta không thể hiểu rõ lời dạy của đức Phật”.
(Biết và Thấy; thiền sư Pa-auk Sayadaw-thiền sư Phật giáo Nguyên thuỷ; dịch giả: Pháp Thông).

Được như vậy, chúng ta sẽ biết “Quán tâm nơi tâm”, theo kinh điển PG nguyên thuỷ. Rồi sẽ nhận ra “thiền ngôn” độc đáo của các thiền sư đốn giáo Nam tông (PG Đại thừa Bắc truyền); vọng thức vọng tưởng không còn có chỗ nắm bắt. Rồi sẽ nhận ra: “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là Thiền, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống. Và tiếp tục hành thâm: Sống với Ánh sáng Tự tánh Viên Giác (không tịch-linh tri), mang năng lượng đại thừa thiện ích vô biên. (Không tịch là tâm rỗng không-tĩnh lặng, linh tri là tự tri-đang là-nhận biết-thấy nghe-cảm nhận một cách linh hoạt).

------------------------------

LỜI “TRỰC CHỈ NHÂN TÂM” (“QUÁN TÂM NƠI TÂM”) CỦA NGÀI JIDDU KRISHNAMURTI

"(...) Ngài có thấy sự kiện thực tế đó, không phải ý tưởng mà cái thực tế là: ngài chính là tính nết của ngài, cơn giận của ngài, lòng ganh tị của ngài, sự ghen tuông của ngài, lòng hận thù của ngài, sự bất an của ngài, sự bấn loạn của ngài... - rằng ngài là thế đó? Đừng chỉ biết nó bằng lời hay đồng ý miệng - vì như vậy chúng ta sẽ không hiểu nhau - MÀ THỰC SỰ THẤY SỰ KIỆN NÀY VÀ TRỤ LẠI VỚI NÓ. Được không? Khi ngài trụ lại với nó, như thế ngụ nghĩa gì? CHÚ TÂM - đúng không? Không có động thái nào trốn khỏi nó. Chỉ trụ lại với nó. (...). Lúc đó không có xung đột, lúc đó ngài phá vỡ được lối mòn của trí não. (...) Ngay lúc mình nhìn thấy được sự kiện này thì MỌI VIỆC SẼ HOÀN TOÀN KHÁC HẲN. (...).
--
(...) Có điều gì lạ thường hiện hữu ở đây rồi, mà vì nó - nếu như nó hiện hữu - mình phải HIẾN CẢ TÂM TRÍ, CẢ TẤM LÒNG để gìn giữ. Ngài có thấy vậy không thưa ngài?
(...) Tôi đang hỏi, Panditji, liệu có điều gì đó trường tồn, không bị bó buộc bởi thời gian, sự tiến hoá và các thứ. Nó phải hết sức linh thiêng. Và nếu nó hiện hữu, mình phải dâng hiến cả đời mình cho nó - không phải bằng học thuyết hay tri thức, mà bằng sức truyền cảm của nó, chiều sâu của nó, vẻ đẹp của nó, sức mạnh vô song của nó. (...).
--
(...) Ngài chưa từng NƯƠNG VÀO CÁI TOÀN THỂ, TUÂN THEO CÁI ĐANG LÀ. (...) Chúng ta chưa hề trụ ở đó. Chúng ta luôn luôn di chuyển, dịch chuyển. Đúng không? Tôi là thế này, tôi sẽ là thế kia - đó là sự lánh xa khỏi cái đang là.
--
(...) Mọi thời gian nằm trong cái bây giờ, ngay phút giây này. Đây thực sự là điều phi thường nhất: nhìn ra rằng tương lai, quá khứ là cái bây giờ. Đó có phải là một sự kiện, không phải ý tưởng về sự kiện? (...).
Đó có thể là điều phi thường nhất, nếu ngài tìm hiểu sâu vào. Đó có thể là BẢN THỂ CỦA LÒNG TRẮC ẨN. Đó có thể là BẢN THỂ CỦA SỰ THÔNG MINH LẠ THƯỜNG không thể tả. Ngài không thể nói mọi thời gian là bây giờ nếu đó không phải là một thực tế. (...).
Tôi thấy rằng nếu hôm này tôi tham lam, hôm nay ganh tị, ngày mai tôi sẽ tiếp tục tham lam và ganh tị, trừ phi có gì đó xảy ra bây giờ. Vậy tôi có thể thay đổi, biến đổi ngay bây giờ?

Có một vận động không thuộc thời gian (tâm lí) xảy ra nếu như có một biến đổi căn cơ. Ngài thấy chứ thưa ngài? Hai triệu rưỡi năm về trước chúng ta là người man rợ, bây giờ chúng ta vẫn man rợ: muốn có quyền lực, địa vị, giết chóc lẫn nhau, ganh tị so sánh, và mọi thứ. Ngài đã đặt ra thách đố cho tôi: mọi thời gian là bây giờ. Tôi không có lối thoát, tôi không có cửa thoát khỏi sự kiện chính yếu này. Tôi tự nói: Trời ơi, nếu bây giờ mình không thay đổi, ngày mai cũng sẽ như vậy. Vậy có thể nào tôi biến đổi ngay bây giờ không? Tôi nói rằng có đấy.

(...) Đừng hỏi cách nào, thưa ngài. Ngay lúc ngài hỏi cách nào, ngài đã ở trong tiến trình thời gian rồi. (...) NGÀI LÀ CÁI NGÀI ĐANG LÀ BÂY GIỜ.
--
(...) Có một trật tự khác thường trong vũ trụ. Lỗ đen là một phần của trật tự đó. Bất cứ khi nào con người bước vào là hắn gây hỗn loạn. Vậy tôi hỏi, có thể nào tôi, với vị thế một con người nhưng đồng thời cũng là toàn thể nhân loại, tạo ra được trật tự trong chính mình trước tiên? TRẬT TỰ NGỤ NGHĨA LÀ VÔ TƯ LỢI”.
------
(Danh nhân giác ngộ Jiddu Krishnamurti - người không theo tôn giáo nào cả, được Liên Hiệp Quốc, được nhiều danh nhân tôn giáo và xã hội tôn vinh.
Trích trong Lời Cuối Bình Yên của nhà biên dịch Mộc Nhiên).
-------------------------

THAM KHẢO THÊM:

* "... Nếu các bạn xem xét kĩ ắt các bạn sẽ thấy rằng, những gì biểu hiện cũng đều có cơ sở từ những khái niệm tinh thần (...).
Khi mình thấy những gì hiện bày trên thế giới, mình hiểu rằng thực ra chẳng phải nguyên do ở hai tiến trình ngoại cảnh và nội tại; mà thuần chỉ có một tiến trình hợp nhất, thuần chỉ có một vận hành toàn thể, tổng hợp: là sự vận hành nội tại thị hiện ra làm ngoại cảnh, rồi ngoại cảnh đối đãi lại với nội tại. (...).

Sau khi nhìn thấy tất cả những gì hiện tiền đây, chẳng phải bằng suy luận, mà bằng nhận thấy thật sự, thì các bạn có thể tự chuyển hoá mình một cách dễ dàng, một cách hoát nhiên như không”.
(Giải thoát tri kiến; dịch giả?; danh nhân giác ngộ Jiddu Krishnamurti).

* “Bất động (vô niệm) chính là toàn thể mọi chuyển động, là bản thể mọi hành động, sinh động mà không hình bóng, tư tưởng; kẻ tạo ra hình bóng thì không có cách nào định lượng được sự bất động đó”.
(Bút hoa-The Krishnamurti’s notebook; dịch giả: Ẩn Hạc).

* “Gọi là Thượng Đế hay Chân Lí đều như nhau. Chân Lí là giải thoát tâm trí khỏi mọi gánh nặng của trí nhớ (mang tính chất tâm lí quy ngã)”.
(Krishnamurti ở Carmel; một phỏng vấn; dịch giả?).

* “Trong các môn tu học của đạo Phật, tập thiền là trước hết. Nếu tâm không an thiền tĩnh lự, hành giả sẽ không biết làm sao để đương đầu với giờ phút nghiêm trọng có thể hiện đến. Muốn tìm hạt châu dưới nước, đừng làm cho nước chao động; sóng nổi lên thì khó mà mò ra hạt châu. Hãy làm cho dòng nước thiền định lắng trong, hạt châu của tâm linh sẽ phát hiện. Vì vậy kinh Viên Giác có nói: “Trí tuệ vô ngại và thanh tịnh do định mà có”; và kinh Pháp Hoa nói: “Ở nơi vắng vẻ tu nhiếp tâm mình, an trụ bất động như núi Tu di”.

Như vậy chúng ta biết rằng con đường chắc chắn sẽ siêu phàm, vượt thánh tất nhờ duyên của định. Và người xưa, ngồi mà đi, đứng mà chết, thảy đều do định lực. Một đời đôn đáo, còn sợ chậm, huống lại chần chờ thì lấy gì mà địch với nghiệp? Người xưa nói: “Nếu không thành đạt sức mạnh của thiền định để đủ sức phá huỷ cõi chết, thì sẽ phải trở lại cõi đời này với đôi mắt mù và với công trình dang dở”.

Các thiện hữu thân mến, xin hãy đọc đi đọc lại những lời này, để rồi (nhờ định lực), lợi mình và lợi người, cùng thành chánh giác”.

(Toạ thiền nghi; tác giả: khuyết danh. Trích trong Thiền luận-quyển trung; D. T. Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

(Sách (Thiền luận II) cũng nhấn mạnh về: “Tồn tâm nhất xứ”, “Nhập lưu vong sở”, “Thiền sư an toạ đối diện với chính mình và thế giới” – trải nghiệm của một thiền sư (có thể là vô danh ẩn sĩ) thật sự có mức độ chứng ngộ chân lí Thiền, không chỉ dừng lại ở giá trị nhân văn tâm linh).

* “Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm)”.
(Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
---

* (Mời đọc thêm các sưu tầm về minh triết tâm linh-cuộc sống, trong danh mục dưới bài thơ Thay Lời Cảm Tạ Bậc Minh Sư Vĩ Đại - tác giả: Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn).
-----------------------------------------