Thơ » Việt Nam » Cận đại » Nguyễn Khuyến » Thơ chữ Nôm
Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 09/03/2025 14:46
Khoa mục đường xưa;
văn chương lối mới.
Giời năm mây, lời thiên tử rõ ràng;
Bóng bốn bể, bụng cử nhân tức tới.
Lều chiếu là thang võng lọng, tranh lèo giật giải có ai nhường?
Tràng thiềm là cửa cân đai, cao gối mau chân không kẻ đợi?
Công danh gặp hội, đường thanh vân sấn bước toan trèo;
Phú quý nức lòng, cành đan quế giơ tay quyết với.
Tấc gang chực vin rồng tựa phụng, mượn phấn vua mà trả nợ bút nghiên xưa;
Đêm ngày chăm mài sắt nên kim, nhờ đạo thánh để đền công đèn sách lại.
Cửa hiền rộng mở, một nền cức viện, có quả, có hoa,
Trận bút tranh đua, ba đợt Vũ môn, lẫn trê, lẫn chuối.
Có một người:
Mặt mũi khôi ngô;
Râu mày nhẵn nhụi.
Biếng học, siêng ngủ, sách vở mập mờ;
Non tập, già chơi, văn chương sốc nổi.
Đến khoa thi, nửa sợ nửa mừng;
Tính nhân sự, một may một rủi.
Mừng mặt đủ buồng cau, bánh thuốc; đồ vào trường kể rất mực phong lưu;
Theo chân nhiều đầy tớ, học trò, chốn tạm trọ hãy tìm nơi rộng rãi.
Chứng hay ngủ, sửa sang sắp sẵn: lều một vác, chiếu một ôm;
Đồ phụng thân, mang xách nặng nề: nước đầy bầu, giầu đầy túi.
Thuốc Bách tính, đóm diêm, điếu ống; thông mồi này, đặt mồi khác, văn được như thuốc ắt hẳn hơi dài;
Chả Ba họ, cơm nắm, ruốc bông; ăn một miếng, nghĩ một câu, văn được như cơm can gì ý nỗi.
Văn làm đặc như bí, dai như đỉa; dò lều này sang lều nọ, vi nhứt vi nhì;
Sách quên tối như hũ, mờ như đêm; nghe câu được với câu chăng, viết chầy, viết cối.
Đệ nhứt trường, làm bài tinh nghĩa, lần theo tám vế rõ ràng;
Hai trăm chữ, điểm đủ tân quy, tùng tiệm hai tờ ngắn ngủi.
Phú cũng chẳng ra Tàu ra Mán, theo anh em: tắc kiến, phù kỳ;
Sách gọi là có cổ có kim, đủ lề lối: sĩ văn, cẩn đối.
Đóng lều kín mít, nhất định ngồi dai;
Xe sáp thẳng gang, cố tình viết tối.
Những e ấp, chửa mang mình ốc nổi, lại ra sự giắt tay trẻ xuống giếng, ngấp nghé làm gà;
Toan kéo co trả nợ tổ tôm thua, khéo dơ tuồng đơm đó cá trên cây, kiếm ăn như rái.
Lúc nộp quyển hòm đà đóng khoá; van lại phòng tiếng nhỏ, tiếng to;
Khi ra trường trời đã quá canh, gọi đầy tớ ấm a, ấm oái.
Buồng nhà trọ, lúc thở dài vuốt bụng, những mừng thầm quyển ấy đủ được là may;
Ghế cô hàng, khi vắt chéo rung đùi, lại khoe mẽ văn kỳ này nghe cũng lợi.
Lúc hẹp dạ những bàn dầy bàn mỏng: nhờ lượng quan trường rộng tay bút, cuối bảng chẳng từ;
Khi cả gan lại nghĩ quẩn nghĩ quanh: hoạ trong quyển có câu thần, thủ khoa cũng phải.
Đến khi:
Ghế chéo dán lọng xanh;
bành voi giương ống gọi.
Số cử nhân xướng đã đủ lần;
Dòng niên hiệu đọc đà đến cuối.
Thầy đồ nọ, nét mặt tế tổ ngoại, áo quàng vai đi tất tả tất tơi;
Bác tú kia, đầu gối tranh trưởng nam, nón cắp nách chạy hớt hơ hớt hải.
Nào những lúc ra trường đoạn: xênh xang hàng phố, giầy kéo lê. quần chấm gót, dịu dàng thay tốt bộ cử nhân!
Nào những khi xướng danh rồi: lủi thủi cửa trường, khăn bỏ giọt, áo giắt lưng, lơ láo tưởng như hình chú lái!
Nghĩ đến một tháng tròn phí tổn, làm hại chưng con mễ, con kim;
Nhớ chữ ba đời trước cung khai, thêm tủi với ông bà, ông vải.
Ngơ ngác lúc quắp râu về trọ: đầy tớ lư đừ, mụ hàng ánh ỏi, lắng tai nghe gà gáy để tìm lui;
Buồn tênh khi vác mặt lên nhà: trẻ con nhạt nhẽo, mẹ nó thờ ơ, vẫy đuôi thấy chó mừng càng thêm tủi.
Cũng nghĩ đi cho khỏi cáo, tiền tài mua lấy cái trò chơi;
Ai ngờ về lại hoàn mèo, mẹo lẩn liệu đường mà nói giải.
May phúc chốc! Thói kiêu chừa được hẳn, như dưa mới rầu, như cau mới héo, ngại ngùng những thẹn với đầu râu;
Đáng kiếp thay! Mùi hợm bớt từ đây, lấy nong mà đè, lấy rổ mà che, ngơ ngáo chẳng còn ra mặt mũi.
Thôi thì thôi:
Canh bạc bằng chân;
Chuyến buôn không lãi.
Cùng, thông cuộc thế biết hay sao!
Phong, sắc lòng trời đừng vội hỏi.
Hỏng khoa này chờ khoa khác, thép hùng văn đúc lại mới nên già;
Qua một sự sinh một điều, đường thế cố trải lâu thì mới sỏi.
Số phận chớ bàn sớm muộn, có học, có thi, có hỏng, có dọc ngang cho phỉ chí mới cam;
Quân ân nào hạn trước sau, còn trời, còn nước, còn non, còn vinh hiển với thế gian được mãi.
Dẫu kẻ gọi ngựa, bảo trâu cũng mặc, cái hay, cái dở không cùng;
Rầy ta lấy mai, với hạnh mà suy, nở trước, nở sau có hội.
Hễ nho giả suy cho cùng lý, trời đã hậu người tai mắt ấy, chữ “sinh tài hữu dụng” hẳn không lo;
Mà trượng phu thì phải tự cường, trời không phụ kẻ đèn sách nào, câu “hữu chí cánh thành” xin chớ vội.
Nay nhân:
Ngồi đó cũng buồn;
ruột càng thêm rối.
Trách phận đã no trách số, nôm na mượn bút làm vui;
Cười mình đâu dám cười ai, chấp chểnh mấy lời tự hối.