Thơ » Trung Quốc » Hán » Lưu Triệt
Đăng bởi Vanachi vào 23/10/2008 10:17
瓠子決兮將奈何?
浩浩洋洋兮閭殫為河。
殫為河兮地不得寧,
功無已時兮吾山平。
吾山平兮巨野溢,
魚沸郁兮柏冬日。
正道弛兮離常流,
蚊龍騁兮方遠遊。
歸舊川神哉沛,
不封禪兮安知外?
為我謂河伯兮何不仁,
泛濫不止兮愁吾人。
齧桑浮兮淮泗滿,
久不返兮水維緩。
Hồ Tử quyết hề tương nại hà?
Hạo hạo dương dương hề lư đàn vi hà.
Đàn vi hà hề địa bất đắc ninh,
Công vô dĩ thì hề Ngô sơn bình.
Ngô sơn bình hề Cự Dã dật,
Ngư phí uất hề bách đông nhật.
Chính đạo thỉ hề ly thường lưu,
Văn long sính hề phương viễn du.
Quy cựu xuyên thần tai bái,
Bất phong thiền hề an tri ngoại?
Vị ngã vị hà bá hề hà bất nhân,
Phiếm lạm bất chỉ hề sầu ngô nhân.
Khiết Tang phù hề Hoài, Tứ mãn,
Cửu bất phản hề thuỷ duy hoãn.
Sông Hồ Tử vỡ, biết làm sao đây?
Cuồn cuộn ào ào, tất thảy đều thành sông.
Tất thảy thành sông, đất chẳng yên ổn,
Đê không đắp bồi, núi Ngô bị san bằng.
Núi Ngô bị san bằng, Cự Dã bị ngập,
Cá bơi nhởn nhơ, ngày đông đã gần tới.
Dòng chính bị mất, dòng phụ tách ra,
Muỗi rồng bơi chạy đi xa.
Quay về nơi sông xưa bị ngập thật thương cảm,
Nếu không đi cúng tế thì sao biết nạn ngoài xa này?
Nói giúp ta với hà bá, thực bất nhân,
Nước tràn trề không ngớt, lòng ta sầu.
Khiết Tang trôi nổi, Hoài, Tứ ngập đầy,
Dòng chính mãi không trở lại như cũ, việc đê điều chậm chạp.
Do chữ 慮, nghĩa cổ là hết thảy, tất cả. |
Ngô sơn còn gọi là Ngư sơn 魚山, nay thuộc huyện Đông A, tỉnh Sơn Đông. |
Tên một cái đầm thời xưa, còn gọi là Đại Dã 大野, nay ở bắc huyện Cự Dã, tỉnh Sơn Đông, phía bắc liền với Lương Sơn Bạc. |
Do chữ 迫, nghĩa là gần, sắp. |
Nơi cúng tế đời xưa. Tạ công của trời gọi là phong, tạ công của đất gọi là thiền. Câu này ý nói nếu ông không lên tế trời đất trên núi Thái Sơn, thì làm sao biết là có nạn lụt này ở ngoài ải Hàm Cốc. |
Tên đất, ở tây nam huyện Bái, tỉnh Giang Tô. |
Tên sông, xuất phát từ núi Đồng Bách ở Hà Nam, chảy về hướng đông qua An Huy, Giang Tô, đến huyện Hu Dị thì chảy vào hồ Hồng Trạch. |
Tên sông, xuất phát từ huyện Tứ Thuỷ, tỉnh Sơn Đông, chảy về hướng tây nam qua các huyện Khúc Phụ, Duyện Châu, đến huyện Tế Nam thì nhập vào sông Vận Hà. |
Ý nói sau khi nạn lụt đã 20 năm mà sông Hồ Tử vẫn không trở lại dòng chính là Hoàng Hà. |
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 23/10/2008 10:17
Hồ Tử vỡ chừ biết làm sao?
Cuồn cuộn ào ào chừ hết thảy thành sông.
Thảy thành sông chừ đất chẳng yên bình,
Đê không đắp bồi chừ núi Ngô bằng.
Núi Ngô bằng chừ Cự Dã ngập,
Cá nhởn nhơ chừ ngày đông sắp.
Dòng chính mất chừ tách dòng ra,
Muỗi rồng chạy chừ bơi đi xa.
Tới sông xưa sao thương cảm,
Chẳng cúng tế chừ sao biết nạn?
Ta nói với hà bá chừ sao bất nhân,
Tràn trề chẳng ngớt chừ lòng ta buồn.
Khiết Tang trôi chừ Hoài, Tứ ngập,
Mãi chẳng về chừ đê phòng chậm.
Hồ tử vỡ chừ phải làm sao?
Mênh mông sóng chừ làng hoá sông.
Làng hoá sông chừ đất bất ổn.
Cứu lụt mãi chừ đồi phẳng trơn.
Đồi phẳng trơn chừ Cự dã ngập.
Cá lăn tăn chừ sắp mùa đông.
Sông chuyển lòng chừ bỏ dòng cũ.
Giao long hứng chừ ham viễn du.
Về sông cũ chừ được thờ cúng.
Ngoài phong thiện chừ biết gì hơn!
Hỏi Hà bá chừ sao bất nhân,
Lụt lội mãi chừ dân sầu khổ?
Niết tang ngập chừ Hoài, Tứ lụt,
Mãi không về chừ trông nước rút.