Nam Thanh Phong nghe người già cả
Kỷ Tị qua đem kể cùng ta
Chiến trường bên Bắc trước kia
Cần vương hai chữ chưa nhoà trên tên
Nhớ ngày ấy mông trần bi đát
Thế quân thù gió táp mưa sa
Tử Kinh quan sáng tù va
Bừng bừng sát khí quân hò Sóc U
Cửa Chương Nghĩa ngựa Hồ uống nước
Lửa khói đêm mây rực núi Yên
Trong thì quan thượng Vu Khiêm
Ngoài có họ Thạch gan liền tướng quân
Quân Thạch gia sấm ran chớp giật
Như từ trời từ đất xông lên
Triều đình mất Tử Kinh quan
Điếm Thanh Phong liệu người dân giữ nào
Dắt díu nhau chạy nhao tránh giặc
Vọng trời cao khóc lóc kêu la
Đầu giường gối trống tù và
Nhà dân trên mái cắm cờ tinh mao
Tướng quân mới vung đao lúc đó
Giết quân Hồ như cỏ như khao
Đuổi giặc chạy máu ngầu dao
Vầng dương phăng phắc trời cao xanh rờn
Muôn dặm bụi khói tan một kiếm
Hai cha con việc hiếm xưa nay
Trời sinh Lý Thịnh đất này
Nguyên lão Phương Thúc Chu rày giúp vua
Thiền Vu khóc cửa quan Đảo Mã
Đường Phi Hồ chết nửa kiệt nô
Nơi nơi rộn rã trống cờ
Nhà nhà đem đến rượu bò khao quân
Phiêu Diêu Hán không cần nêu nữa
Đường Tử Nghi nhắc tổ rườm rà
Sáu mươi xuân việc đã qua
Đất này lại đến lệ nhoà thấm khăn
Xương trắng xưa mây ngàn nắng xế
Sỏi cát bay buồn kẻ qua đường
Qua đường bẻ liễu chiến trường
Xuống ngựa ngồi ngắm Cư Dung bên đàng
Nhớ nghìn quan xếp hàng đón giá
Nghìn muôn xe ngựa hạ hoàng đô
Chúa trung hưng lại có cơ
Sáng vầng nhật nguyệt dư đồ lại xây
Bậc anh hùng Đài Mây chẳng kể
Dương Thạch tên ai dễ sánh cùng
Dương Thạch nay đã là không
Sao sinh lại được tây phòng Kiệt Nô

tửu tận tình do tại