19/04/2024 07:12Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thạch tướng quân chiến trường ca
石將軍戰場歌

Tác giả: Lý Mộng Dương - 李夢陽

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Minh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/01/2019 22:25

 

Nguyên tác

清風店南逢父老,
告我己巳年間事。
店北猶存古戰場,
遺鏃尚帶勤王字。
憶昔蒙塵實慘怛,
反覆勢如風雨至。
紫荊關頭晝吹角,
殺氣軍聲滿幽朔。
胡兒飲馬彰義門,
烽火夜照燕山雲。
內有于尚書,
外有石將軍。
石家官軍若雷電,
天清野曠來酣戰。
朝廷既失紫荊關,
吾民豈保清風店。
牽爺負子無處逃,
哭聲震天風怒號。
兒女床頭伏鼓角,
野人屋上看旌旄。
將軍此時挺戈出,
殺胡不異草與蒿。
追北歸來血洗刀,
白日不動蒼天高。
萬里煙塵一劍掃,
父子英雄古來少。
天生李晟為社稷,
周之方叔今元老。
單于痛哭倒馬關,
羯奴半死飛狐道。
處處歡聲噪鼓旗,
家家牛酒犒王師。
休夸漢室嫖姚將,
豈說唐朝郭子儀。
沈吟此事六十春,
此地經過淚滿巾。
黄雲落日古骨白,
沙礫慘淡愁行人。
行人來折戰場柳,
下馬坐望居庸口。
卻憶千官迎駕初,
千乘萬騎下皇都。
乾坤得見中興主,
日月重聞再造圖。
梟雄不數雲臺士,
楊石齊名天下無。
嗚呼楊石今已無,
安得再生此輩西備胡。

Phiên âm

Thanh Phong[1] điếm nam phùng phụ lão,
Cáo ngã Kỷ Tị niên[2] gian sự.
Điếm bắc do tồn cổ chiến trường,
Di thốc thượng đái cần vương tự.
Ức tích mông trần[3] thực thảm đát,
Phản phúc thế như phong vũ chí.
Tử Kinh[4] quan đầu trú xuy giốc,
Sát khí quân thanh mãn U Sóc[5].
Hồ nhi ẩm mã Chương Nghĩa[6] môn,
Phong hoả dạ chiếu Yên sơn vân.
Nội hữu Vu thượng thư,
Ngoại hữu Thạch tướng quân.
Thạch gia quan quân nhược lôi điện,
Thiên thanh dã khoáng lai cam chiến.
Triều đình ký thất Tử Kinh quan,
Ngô dân khởi bảo Thanh Phong điếm?
Khiên da phụ tử vô xứ đào,
Khốc thanh chấn thiên phong nộ hào.
Nhi nữ sàng đầu phục cổ giốc,
Dã nhân ốc thượng khán tinh mao.
Tướng quân thử thời đĩnh qua xuất,
Sát Hồ bất dị thảo dữ cảo.
Truy bắc[7] quy lai huyết tẩy đao,
Bạch nhật bất động thương thiên cao.
Vạn lý yên trần nhất kiến tảo,
Phụ tử anh hùng[8] cổ lai thiểu.
Thiên sinh Lý Thịnh[9] vị xã tắc,
Chu chi Phương Thúc[10] kim nguyên lão[11].
Thiền Vu thống khốc Đảo Mã[12] quan,
Kiệt Nô[13] bản tử Phi Hồ[14] đạo.
Xứ xứ hoan thanh tháo cổ kỳ,
Gia gia ngưu tửu khao vương sư.
Hưu khoa Hán thất Phiêu Diêu tướng[15],
Khởi thuyết Đường triều Quách Tử Nghi[16]?
Trầm ngâm thử sự lục thập xuân,
Thử địa kinh qua lệ mãn cân.
Hoàng vân lạc nhật cổ cốt bạch,
Sa lịch thảm đạm sầu hành nhân.
Hành nhân lai chiết chiến trường liễu,
Hạ mã toạ vọng Cư Dung khẩu[17].
Khước ức thiên quan nghinh giá sơ,
Thiên thặng vạn kỵ hạ hoàng đô.
Càn khôn đắc kiến trung hưng chủ,
Nhật nguyệt trùng khai tái tạo đồ.
Kiêu hùng bất sổ Vân Đài[18] sĩ,
Dương Thạch tề danh thiên hạ vô.
Ô hô Dương Thạch[19] kim dĩ vô,
An đắc tái sinh thử bối tây bị Hồ!

Dịch nghĩa

Đến phía nam điếm Thanh Phong gặp các phụ lão
Kể lại cho ta nghe việc năm Kỷ Tị
Mạn bắc điếm vẫn còn dấu vết của chiến trường xưa
Mũi tên còn lại có mang chữ cần vương
Nhớ trước đây buổi mông trần thật là bi đát
Quân giặc như gió mưa ập đến
Sáng ra thổi tù và ở Tử Kinh quan
Tiếng quân, không khí trận mạc khắp cả U Sóc
Quân Hồ cho ngựa uống nước trước cửa Chương Nghĩa
Ban đêm lửa khói chiếu sáng mây núi Yên
Bên trong thì có Vu thượng thư
Bên ngoài có Thạch tướng quân
Quan quân Thạch gia như sấm ran chớp giật
Lao vào cuộc chiến giữa trời cao đồng rộng
Triều đình đã mất Tử Kinh quan
Dân ta làm sao giữ được điếm Thanh Phong
Dắt cha dìu con không biết tránh nơi nào
Tiếng khóc vang trời, gió giận gào lên
Đầu giường trai gái gối tù và, trống
Trên mái làng quê thấy cắm cờ tinh mao
Bấy giờ tướng quân vác giáo ra đi
Giết quân Hồ không khác gì cỏ và rau khao
Đuổi quân giặc quay về, rửa dao ngầu máu
Thái dương im phăng phắc trời xanh cao
Muôn dặm khói bụi một thanh kiếm quét sạch
Cha và con đều anh hùng xưa nay ít có
Trời sinh Lý Thịnh vì xã tắc
Phương Thúc nhà Chu nay là nguyên lão
Thiền Vu khóc sướt mướt ở Đảo Mã quan
Kiệt nô chết một nửa lủi qua đường Phi Hồ
Reo vui khắp nơi phất cờ đánh trống
Nhà nhà đem bò rượu khao quân vua
Đừng khoe tướng Phiêu Diêu nhà Hán
Kể làm chi Quách Tử Nghi đời Đường
Nghĩ đến việc này cách đây đã 60 năm
Đi qua đất này lệ đẫm khăn
Mây vàng, chiều xế, xương trắng xưa còn lại
Sỏi cát ảm đạm não lòng người đi qua
Người đi qua bẻ liễu chiến trường
Xuống ngựa ngồi trông về cửa Cư Dung
Nhớ nghìn quan buổi đầu đón vua
Nghìn cỗ xe vạn con ngựa trẩy về hoàng đô
Đất trời lại thấy chủ trung hưng
Vầng nhật nguyệt lại bừng lên, tái tạo cơ đồ
Bậc anh hùng chẳng kém các nhân vật ở Đài Mây
Dương Thạch tên tuổi như nhau thiên hạ không có
Ô hô Dương Thạch nay đã không còn
Làm sao lại sinh ra lớp người này nữa, để chống quân Hồ ở phía tây

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Nam Thanh Phong nghe người già cả
Kỷ Tị qua đem kể cùng ta
Chiến trường bên Bắc trước kia
Cần vương hai chữ chưa nhoà trên tên
Nhớ ngày ấy mông trần bi đát
Thế quân thù gió táp mưa sa
Tử Kinh quan sáng tù va
Bừng bừng sát khí quân hò Sóc U
Cửa Chương Nghĩa ngựa Hồ uống nước
Lửa khói đêm mây rực núi Yên
Trong thì quan thượng Vu Khiêm
Ngoài có họ Thạch gan liền tướng quân
Quân Thạch gia sấm ran chớp giật
Như từ trời từ đất xông lên
Triều đình mất Tử Kinh quan
Điếm Thanh Phong liệu người dân giữ nào
Dắt díu nhau chạy nhao tránh giặc
Vọng trời cao khóc lóc kêu la
Đầu giường gối trống tù và
Nhà dân trên mái cắm cờ tinh mao
Tướng quân mới vung đao lúc đó
Giết quân Hồ như cỏ như khao
Đuổi giặc chạy máu ngầu dao
Vầng dương phăng phắc trời cao xanh rờn
Muôn dặm bụi khói tan một kiếm
Hai cha con việc hiếm xưa nay
Trời sinh Lý Thịnh đất này
Nguyên lão Phương Thúc Chu rày giúp vua
Thiền Vu khóc cửa quan Đảo Mã
Đường Phi Hồ chết nửa kiệt nô
Nơi nơi rộn rã trống cờ
Nhà nhà đem đến rượu bò khao quân
Phiêu Diêu Hán không cần nêu nữa
Đường Tử Nghi nhắc tổ rườm rà
Sáu mươi xuân việc đã qua
Đất này lại đến lệ nhoà thấm khăn
Xương trắng xưa mây ngàn nắng xế
Sỏi cát bay buồn kẻ qua đường
Qua đường bẻ liễu chiến trường
Xuống ngựa ngồi ngắm Cư Dung bên đàng
Nhớ nghìn quan xếp hàng đón giá
Nghìn muôn xe ngựa hạ hoàng đô
Chúa trung hưng lại có cơ
Sáng vầng nhật nguyệt dư đồ lại xây
Bậc anh hùng Đài Mây chẳng kể
Dương Thạch tên ai dễ sánh cùng
Dương Thạch nay đã là không
Sao sinh lại được tây phòng Kiệt Nô
Thạch tướng quân tức Thạch Hanh, người Vị Nam, Thiểm Tây, con nhà tướng, tướng mạo khôi ngô, gan dạ hơn người, Khoảng năm Chính Thống, ông thủ giữ Đại Đồng, luôn lập chiến công, quan đến Đô đốc thiêm sự, làm tả tham tướng Đại Đồng. Năm Chính Đức thứ 14, biến loạn Thổ Mộc bảo, quân Ngoã Thích bức đến chân thành Bắc Kinh, Vu Khiêm tiến cử Thạch Hanh. Dưới sự bố trí của Vu Khiêm, Thạch Hanh đem quân ra ngoài thành, đi trước binh lính, xung phong hãm trận, quân Ngoã Thích thua chạy về nam, Thạch Hanh đem quân ngày đêm đuổi theo, ba ngày đuổi đến phía bắc điếm Thanh Phong, ông thân dẫn đội tinh nhuệ, xông thẳng vào trận giặc, giết chết mấy trăm tên, giành lại của cải ngựa dê bị giặc cướp đi. Từ đấy quân Ngoã Thích hễ nghe thấy tên là sợ mất mật, gọi là Thạch da da. Sau khi đón Anh Tông trở lại ngôi vị, cạy công kiêu rông, Anh Tông sợ ông quyền thế quá cao, với tội âm mưu làm phản bị hạ ngục đến chết. Sáu mươi năm sau, tác giả lại đến điếm Thanh Phong, nơi chiến trường xưa, với cảm khái mạnh mẽ, làm bài ca này để ca ngợi hai cha con họ Thạch. Mấy câu cuối có hàm ý chua sót mỉa mai.

[1] Nay ở phía bắc huyện Định, Hà Bắc.
[2] Tức năm Chính Thống thứ 14.
[3] Chỉ vua chạy ra ngoài kinh thành, đây chỉ Anh Tông bị bắt.
[4] Cửa quan trên núi Kinh Lĩnh, phía tây huyện Dị, Hà Bắc. Năm Chính Thống thứ 14, quân Ngoã Thích công phá cửa quan này, bức thẳng Bắc Kinh.
[5] U Châu và Sóc Châu, ước một giải phía bắc Sơn Tây và Hà Bắc ngày nay.
[6] Tức cửa tây ngoại thành Bắc Kinh.
[7] Kẻ thua chạy, chỉ quân Ngoã Thích.
[8] Cháu của Thạch Hanh cũng theo chú đuổi giết quân Ngoã Thích.
[9] Danh tướng đời Đường, trấn thủ biên giới tây bắc lập nhiều chiến công, dẹp tan phản loạn Chu Tỷ, thu phục Trường An.
[10] Đại thần thời Chu Tuyên Vương, từng đem ba nghìn cỗ xe đánh bại nước Sở, lại đem quân đánh người dân tộc thiểu số phương bắc, dân tộc Hiểm Doãn.
[11] Quan tướng già là trọng thần của triều đình.
[12] Ở huyện Đường. Hà Bắc ngày nay.
[13] Bộ lạc khác của Hung Nô, đây chỉ quân Ngoã Thích.
[14] Tên con đường cổ, ở huyện Uý, Hà Bắc ngày nay.
[15] Danh tướng Hoắc Khứ Bệnh đời Tây Hán, trước sau mấy lần đánh bại Hung Nô, quan đến Phiêu kỵ tướng quân, từng làm Phiêu Diêu hiệu uý, nên có tên.
[16] Danh tướng đời Đường, bình định loạn An Lộc Sơn thu phục Trường An, Lạc Dương, phong Phần Dương quận vương.
[17] Tức Cư Dung quan, ở tây bắc huyện Bình Xương, Bắc Kinh ngày nay. Một trong những cửa quan trọng yếu ở Trường Thành. Năm đầu Cảnh Thái, Ngoã Thích thả Anh Tôn về, Cảnh Đế sai đại thần đến Cư Dung quan đón tiếp.
[18] Tên đài cao trong cung nhà Hán, thời Hán Minh Đế đời Đông Hán, cho vẽ 28 bức chân dung công thần trung hưng để tỏ nêu công trạng.
[19] Dương Hồng và Thạch Anh, Dương Hồng tên chữ là Tôn Đạo, người cùng thời với Thạch Hanh, thủ giữ biên ải phía bắc, quan đến tổng binh tuyên phủ, đeo ấn Trấn Sóc đại tướng quân. Ông luyện quân nghiêm túc, quân tinh và mạnh, đánh bại địch đến phạm nhiều lần, chúng đều sợ hãi, tôn làm “Dương Vương”.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lý Mộng Dương » Thạch tướng quân chiến trường ca