黌宮宇

陳朝夫子朱文貞,
砥桂頹波說聖經。
理學流芳蘇瀝水,
講壇千古樹風聲。

 

Huỳnh Cung vũ

Trần triều phu tử Chu Văn Trinh,
Chỉ quế đồi ba thuyết thánh kinh.
Lý học lưu phương Tô Lịch thuỷ,
Giảng đàn thiên cổ thụ phong thanh.

 

Dịch nghĩa

Người thầy đời Trần là tiên sinh Chu Văn Trinh,
Dùi mài kinh sử, dạy học trò kinh sách thánh hiền.
Lý học truyền tiếng thơm như nước sông Tô chảy mãi,
Nền cũ nơi dạy học từ ngàn xưa vẫn nghe như tiếng gió rì rầm ngàn cây.


Nguyên chú: Đền là nền cũ nơi dạy học của Chu Văn Trinh đời Trần, ở xã Huỳnh Cung, huyện Thanh Trì, phía tây sông Tô Lịch, cách cửa tây nam thành năm dặm. Vào thời Lê sơ, các vị văn thân huyện Thanh Trì mới bắt đầu dựng miếu kính thờ Chu Văn Trinh, cùng các vị nho sĩ trong huyện. Đầu năm Gia Long, ban cho đền thờ tiên sinh được dùng 6 người quét dọn, đèn hương. Theo quốc sử: Tiên sinh họ Chu, huý An người làng Quang Liệt, Thanh Đàm. Thời Trần, ông giúp vua Hiến Tông sửa sang chính sự, trước tác có cuốn Tứ thư thuyết ước. Vua Minh Tông trọng đạo Nho học, trao chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, nhận dạy Thái ất kinh. Khi Dụ Tông lên ngôi, ông dâng Thất trảm sớ (Sớ xin chém bảy tên nịnh thần). Nhà vua không dùng, tiên sinh treo mũ từ quan về sống ở núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh, lấy hiệu là Tiều Ẩn. Khi Nghệ Tông lên ngôi, mời ông ra làm quan, nhưng ông không nhận. Khi ông mất, tặng phong là Văn Trinh Công, được thờ cùng Khổng Tử ở Văn Miếu.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]