恭和御制賜朝鮮琉球安南諸國使臣詩

虞廷肆覲未盈旬,
拜奉天恩灌沃頻。
不限陽春覃異域,
式隆膏澤寵來人。
淪肌浹髓知優渥,
望日瞻雲妥戴親。
分外帡幪何報答,
願將嵩壽祝皇仁。

 

Cung hoạ ngự chế tứ Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam chư quốc sứ thần thi

Ngu đình tứ cận vị doanh tuần,
Bái phụng thiên ân quán ốc tần.
Bất hạn dương xuân đàm dị vực,
Thức long cao trạch sủng lai nhân.
Luân cơ giáp tuỷ tri ưu ác,
Vọng nhật chiêm vân thoả đới thân.
Phận ngoại bình mông hà báo đáp,
Nguyện tương Tung thọ chúc hoàng nhân.

 

Dịch nghĩa

Sân Ngu ban tứ cho triều cận, chưa được đầy tuần,
Bái tạ thiên ân mưa móc nhiều phen.
Như ánh dương xuân không ngừng đến cả vùng khác,
Dùng huệ trạch để trọng đãi người đến chầu.
Ân huệ còn thấm nhuần đến cả xương da,
Ngắm trời trông mây cho thoả lòng trông cha mẹ.
Nơi biên ngoại được che chắn ân đức, làm sao báo đáp,
Nguyện chúc thánh hoàng vạn thọ như núi Tung sơn.


Bài thơ được chép trong Vãn tình di thi hối 晚晴簃詩匯 của Từ Thế Xương nhà Thanh.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Đức Toàn (II)

Triều cận sân Nghu sắp đủ tuần,
Nhiều phen mưa móc bái thiên ân.
Dương xuân vô hạn lan khắp chốn,
Huệ trạch ban ra để đãi nhân.
Xương da ân huệ còn nhuần thấm,
Trời mây trông ngắm thoả lòng thân.
Đức ân biên ngoại làm sao báo,
Tung cao nguyện chúc thánh hoàng muôn xuân.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Ban tứ sân Ngu chưa đủ tuần,
Nhiều phen mưa móc tạ thiên ân.
Dương xuân lan toả ra nhiều chốn,
Huệ trạch đãi hiền đến đại thần.
Ân huệ thấm nhuần trong tuỷ cốt,
Trời mây trông ngắm thoả song thân.
Đức ân biên ngoại sao đền đáp,
Chúc thánh Tung sơn vạn thọ xuân.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời