復出駐隘店侯命

客年過此不留行,
今已經旬未起程。
三宿遲遲非出畫,
獨行踽踽為存荊。
權衡大義千金重,
萍梗微軀一葉輕。
大厦幾時撑得住,
角巾私第遂平生。

 

Phục xuất trú Ải Điếm hầu mệnh

Khách niên quá thử bất lưu hành,
Kim dĩ kinh tuần vị khởi trình.
Tam túc trì trì phi xuất hoạch,
Độc hành củ củ vị tồn kinh.
Quyền hành đại nghĩa thiên kim trọng,
Bình ngạnh vi khu nhất diệp khinh.
Đại hạ kỷ thời xanh đắc trụ,
Giác cân tư đệ toại bình sinh.

 

Dịch nghĩa

Năm trước qua đây đã không ở lại,
Năm nay qua một tuần mà chưa lên đường.
Ba tháng chậm trễ cũng không ra ngoài kế hoạch,
Đi một mình lủi thủi chưa phải là gai góc.
Cân nhắc việc đại nghĩa nặng như nghìn vàng,
Tấm thân bọt bèo nhẹ như chiếc lá.
Cái nhà lớn biết bao giờ mới chống đỡ được,
Một góc khăn ở riêng đủ thoả nguyện rồi.


Dịch nghĩa của Nguyễn Duy Chính.

Đầu năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung đánh tan quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc. Lê Quýnh và nhóm tham mưu của ông sang Trung Quốc lần thứ hai để cầu viện nhà Thanh động binh thứ hai sang đánh Tây Sơn. Tháng tám năm đó, Lê Quýnh cùng bọn Ðoàn Vượng cả thảy 29 người đi theo ngả Ải Ðiếm, châu Ninh Minh để vào nội địa. Đoàn Lê Quýnh nhờ chuyển đạt lên rằng họ đã đến nơi rồi trở về Ải Điếm để chờ lệnh, trong lúc đó cảm tác làm bài thơ này.

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]