竹枝詞其二

浮雲一百八盤縈,
落日四十八度明。
鬼門關外莫言遠,
四海一家皆第兄。

 

Trúc chi từ kỳ 2

Phù vân[1] nhất bách bát bàn oanh,
Lạc nhật[1] tứ thập bát độ minh.
Quỷ Môn quan ngoại mạc ngôn viễn,
Tứ hải[2] nhất gia giai đệ huynh.

 

Dịch nghĩa

Đường đi như trên mây 108 chỗ uốn khúc,
Âm u qua 48 bến mới thấy ánh sáng mặt trời chiều.
Ra ngoài Quỷ Môn Quan cũng đừng bảo là xa,
Đến đây bốn bể một nhà đều là anh em.


Chú thích:
[1]
Hai câu này đều chỉ khí trời u ám, mãi mới trông thấy ánh mặt trời chiều, nơi hiểm yếu trên đường đến Kiềm Châu.
[2]
Ý là không cần nhắc đến Kiềm Châu cách Biện Kinh quá xa, người trong bốn biển đều thân như anh em cả. Câu này thường được nói tắt, theo cách khác là “Tứ hải giai huynh đệ”.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Trăm lẻ tám khúc mù mây,
Bốn mươi tám bến thấy trời lộ ra.
Quỷ Môn Quan chớ bảo xa,
Người trong bốn biển đều là anh em.


15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Một trăm linh tám khúc mù mây,
Bốn tám bến đò thấy ánh ngày.
Đừng bảo Quỷ Môn xa vắng vẻ,
Anh em bốn bể khi về đây.


Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời