25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
4 bài trả lời: 4 bản dịch

Đăng bởi Vanachi vào 10/03/2014 21:07

荊南兵馬使太常卿趙公大食刀歌

太常樓船聲嗷嘈,
問兵刮寇趨下牢。
牧出令奔飛百艘,
猛蛟突獸紛騰逃。
白帝寒城駐錦袍,
玄冬示我胡國刀。
壯士短衣頭虎毛,
憑軒拔鞘天為高。
翻風轉日木怒號,
冰翼雪澹傷哀猱。
鐫錯碧罌鷿鵜膏,
鋩鍔已瑩虛秋濤,
鬼物撇捩辭坑壕。
蒼水使者捫赤絛,
龍伯國人罷釣鼇。
芮公回首顏色勞,
分閫救世用賢豪。

趙公玉立高歌起,
攬環結佩相終始,
萬歲持之護天子。
得君亂絲與君理,
蜀江如線如針水。
荊岑彈丸心未已,
賊臣惡子休幹紀。
魑魅魍魎徒為耳,
妖腰亂領敢欣喜。
用之不高亦不庳,
不似長劍須天倚。
籲嗟光祿英雄弭,
大食寶刀聊可比。
丹青宛轉麒麟裏,
光芒六合無泥滓。

 

Kinh Nam binh mã sứ thái thường khanh Triệu công đại thực đao ca

Thái thường lâu thuyền thanh ngao tào,
Vấn binh quát khấu xu Hạ Lao.
Mục xuất lệnh bôn phi bách tao,
Mãnh giao đột thú phân đằng đào.
Bạch Đế hàn thành trú cẩm bào,
Huyền đông thị ngã hồ quốc đao.
Tráng sĩ đoản y đầu hổ mao,
Bằng hiên bạt sao thiên vi cao.
Phiên phong chuyển nhật mộc nộ hào,
Băng dực tuyết đạm thương ai nhu.
Tuyên thác bích anh tịch đề cao,
Mang ngạc dĩ oánh hư thu đào,
Quỷ vật phiết liệt từ khanh hào.
Thương Thuỷ sứ giả môn xích thao,
Long Bá quốc nhân bãi điếu ngao.
Nhuế Công hồi thủ nhan sắc lao,
Phân khổn cứu thế dụng hiền hào.

Triệu công ngọc lập cao ca khởi,
Lãm hoàn kết bội tương chung thuỷ,
Vạn tuế trì chi hộ thiên tử.
Đắc quân loạn ty dữ quân lý,
Thục giang như tuyến như châm thuỷ.
Kinh sầm đàn hoàn tâm vị dĩ,
Tặc thần ác tử hưu cán kỷ.
Ly mị võng lượng đồ vi nhĩ,
Yêu yêu loạn lĩnh cảm hân hỉ.
Dụng chi bất cao diệc bất bí,
Bất tự trường kiếm tu thiên ỷ.
Dụ ta quang lộc anh hùng nhị,
Đại Thực bảo đao liêu khả tỷ.
Đan thanh uyển chuyển Kỳ Lân lý,
Quang mang lục hợp vô nê chỉ.

 

Dịch nghĩa

Thuyền lầu của quan thái thường tiếng ồn ào,
Hỏi ra mới biết là đang chuyển quân đi dẹp loạn vùng Hạ Lao.
Quan qua, huyện lệnh chạy trăm chiếc thuyền lướt tới,
Thú dữ rồng thiêng trốn tán loạn.
Thành Bạch Đế vắng nơi dưỡng áo gấm,
Vào mùa đông đưa cho tôi coi cái dao làm từ nước Hồ.
Hùng dũng thay áo chẽn, đầu đội mũ lông hổ,
Tựa xe, tuốt vỏ làm trời cao thêm.
Gió vù, nắng xế, cây thét gào,
Băng nâng, tuyết đỡ làm cho con vượn kêu thương.
Lau chùi có cao vịt xiêm chứa trong bình biếc,
Lưỡi sắc đã uốn như sóng mùa thu.
Quái vật ùa chạy ra khỏi hào,
Sứ giả Thương Thuỷ mân mê giải mũ đỏ.
Người nước Long Bá thôi không câu cá ngao,
Quay đầu nhìn Nhuế Công vẻ mặt đớn đau.
Chia vùng trách nhiệm ra mà cứu đời, cần phải có người tài.

Ông Triệu đứng thẳng ca hát vang,
Nắm vòng, cột dây để làm cho rõ sự tình,
Cả ngàn đời vẫn theo, đó là giúp nhà vua.
Có được ông, tơ vò sẽ được gỡ rối,
Sông Thục như sợi chỉ, như dòng kim.
Núi gai, hòn đạn lòng chưa nguôi,
Bề tôi phản chúa, đứa con xấu thôi đừng làm càn.
Cũng như loài yêu ma quỷ quái mà thôi,
Lưng bọn yêu quái, cổ bọn phản loạn dám nhâng nhâng.
Đem dùng nó không cao mà cũng không thấp,
Không giống gươm dài cần dựa thế.
Chu choa thật là vinh quang tài giỏi,
Có cái gì sánh ngang được với đao quý Đại Thực.
Tranh vẽ trong gác Kỳ Lân kia thật linh động,
Rực rỡ trong trời đất chẳng hề vương bụi.


(Năm 766)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nhượng Tống

Thuyền lầu thái thượng tiếng ồn ào
Đem quân dẹp giặc tới Hạ Lao
Quan lại tới tấp ra đón chào
Hùm thiêng rồng độc trốn nhao nhao
Thành Bạch lạnh tạm đem quân vào
Đông đưa tôi coi thanh đại đao
Áo nẹp, mũ dạ hăng hái sao
Tráng sĩ tuốt vỏ trời nhích cao
Gió lật, nắng lộn, cây thét gào
Mây mờ, tuyết cuốn, vượn xôn xao
Lau đao, bình biếc chứa sẵn cao
Lưỡi sáng, sóng thu coi khác nào
Ma quỷ chen nhau vượt khỏi hào
Người nước Long Bá thôi câu ngao
Nhuế Công quay lại vẻ nôn nao
Cứu đời phải cậy mặt anh hào

Ông Triệu đứng dậy ca hát vang
Nắm vòng, riết dây, cầm đao sang
Muôn năm gìn giữ cho ngai vàng
Tơ rối đao này chặt đứt toang
Sông Thục nhỏ như đường chỉ vương
Lòng tham chiếm giữ, người một phương
Bảo cho quân giặc chớ rông quàng
Yêu, ma, quỷ, quái chẳng ra tuồng
Đao này sẽ chém cho tan xương
Không giống gươm dài phải múa mang
Như ông kể thực bậc phi thường
Đao báu hoạ có sánh được ngang
Trên gác Kỳ Lân để tượng vàng
Ngất trời rực rỡ vẻ vinh quang


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Thuyền lầu Thái Thường sao ồn ào
Đem quân dẹp loạn vùng Hạ Lao.
Lính hầu cấp dưới thuyền đảo chao,
Rồng thiêng thú dữ trốn ào ào.
Thành lạnh Bạch Đế kéo quân vào,
Đông rét cho tôi coi con dao.
Tráng sĩ áo chẽn mũ chào mào,
Dựa tường, tuốt vỏ, trời thêm cao.
Gió lật, nắng mờ, cây thét gào,
Băng nâng, tuyết đỡ vượn xôn xao.
Lau chùi bình bạc chứa đầy cao,
Bóng loáng, sóng thu có khác nào.
Ma quỷ vội vã trốn khỏi hào,
Thương thuỷ sứ già nâng giải đào.
Người nước Long Bá thôi câu ngao,
Ông Nhuế quay đầu mặt xanh xao.
Phân miền cứu đời dùng anh hào.

Ông Triệu đứng lên cao tiếng hát,
Nắm vòng, kết dây làm rõ hết.
Ra sức giúp nhà vua không hề mệt,
Có ông gỡ được tơ rối bét.
Sông Thục như tơ, như đinh sắt,
Rừng gai, hòn đạn còn vướng vít.
Bọn loạn, kẻ xấu chớ dở nết,
Yêu ma quỷ quái giống y hệt.
Lưng cứng, cổ gân dám dỡn mặt,
Chém chẳng cao cũng không thấp tịt.
Không giống gươm dài cần vung vít,
Ôi nó vinh quang oai hùng thật.
Dao quý Đại Thực nó có một,
Bức vẽ đài lân thật rõ nét.
Không bụi sáng choang ánh trời đất.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn phước Hậu

Thuyền quan Thái lầu cao tiếng hét
Điều khiển quân càn quét Hạ Lao
Trăm thuyền bay tới lệnh trao
Thuồng luồng thú dữ ồn ào trốn mau.
Bạch Đế lạnh cẩm bào trú đóng
Cho xem đao Hồ quốc ngày đông
Người hùng áo ngắn mũ lông
Dựa xe tuốt vỏ đao vòng trời cao.
Gió vù thổi rừng gào trời động
Băng nâng che tuyết lộng vượn gào
Dao mài bén trét thêm cao
Sóng thu hư ảo lưởi dao sáng ngời.
Ma quỷ thú sợ rời hầm hố
Thượng Thuỷ mê sờ mó dây thao
Người Long Bá hết câu ngao
Nhuế công mỏi mệt quay đầu ngó ra.
Cứu đời cậy tài ba lỗi lạc

Đứng trên cao Triệu hát ngân dài
Nắm vòng ngọc, xiết dây đai
Nguyện phò thiên tử an bài muôn năm.
Mọi rối rắm có ông tháo gở
Sông Thục như chỉ sợi luồn kim
Núi rưng tên đạn chưa yên
Bầy tôi phản loạn chớ nên làm càn.
Tụi bây tựa một đàn ma quỷ
Cổ loạn lưng quái dám vui sao
Dùng đao không thấp chẳng cao
Không như trường kiêm dựa vào thế chung.
Ánh đao vút anh hùng nể phục
Khó bề so Đại thực sao bằng
Hoạ tài tình gác Kỳ Lân
Không là bùn cặn ánh quang sáu màu.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Tiếng lao xao trên thuyền quan Thái
Điều động quân giải giới Hạ Lao
Địa phương quan lại theo hầu
Giặc như thú dữ tranh nhau tan hàng
Quan áo gấm Bạch thành trú đóng
Đao đất Hồ đông xám cho xem
Mũ lông cọp, áo xắn lên
Dựa xe đao rút, cao thêm bầu trời
Gió thổi mạnh, cây rừng gào thét
Vượn kinh hoàng băng tuyết chở che
Lưỡi đao mài bén thoa cao
Nên trông sáng tựa ba đào mùa thu
Ma cùng vật phải từ hầm hố
Sứ giả Thương thao đỏ mân mê
Câu ngao Long Bá hết về
Nhuế công quay mặt vẻ tê tái buồn
Chia trách nhiệm cho người hiền đức
Triệu công trên thềm ngọc ca vang
Thuỷ chung dây xiết nắm vòng
Muôn năm thiên tử theo cùng lập công
Mọi chỉ rối được ông tháo gỡ
Sông Thục như sợi chỉ kéo lên
Bao gian nan vẫn chưa yên
Hỡi quân phản loạn chớ nên làm càn
Tụi bay cũng như đàn ma quái
Kiêm phản quân mà dám lờn sao?
Dụng đao không thấp không cao
Không như trường kiếm dựa vào thần uy
Ôi ánh đao anh hào nể phục
Thanh bảo đao Đại thực vô song
Kỳ Lân nét vẽ tài tình
Phải đâu bùn đất, sáng tinh sáu màu.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời