15.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Song thất lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
4 bài trả lời: 4 bản dịch
Từ khoá: mùa thu (320) tha hương (95) nhớ nhà (41)

Đăng bởi Vanachi vào 19/09/2014 05:28

秋夜旅懷吟

秋夜靜天光隱約
隔疏簾淡酌金罍
天時人事相催
浮生若夢幾回為歡

人對景花間月照
景撩人樹梢風吹
這般料少人知
閒來風月與誰為秋

詩四絕怡愉雅愛
酒三杯瀟洒離懷
燈前獨對書齋
傷心客地有懷古人

香水外忽聞漁韻
從何來棹進江邊
徘徊月夜霜天
寒山暗認客船更非

曲江水何時大杜
一孤舟繫故園心
時留八首詩吟
令人旅思轉深鄉情

昔我往青青柳絮
兩三聲初語黃鶯
而今菊已含英
柳陰庭外寒鳴秋蟬

昔我去翻翻桃臉
兩三枝初占東風
而今蘭已成叢
桃夭軒外落從寒霜

胡為乎凄涼客舍
日優遊幾個冠童
安能夜夜書房
芭蕉泣露昆虫鳴秋

胡為乎怡愉旅館
歲逡巡已半霜煙
安能暮暮書軒
風搖庭竹月懸屋梁

不是做何郎投筆
將忠肝為國從軍
此身空冒風塵
坐中虛視寢時徒聞

不是做何人捧檄
將孝心離戚從官
他鄉何事盤桓
白雲飛處牡丹開時

今日自海濱遠顧
一輕帆直渡歸陵
鄉魂沸沸如甑
逐帆忽已破層層波

明日自山家遠朓
片孤雲帶曉浮空
鄉心裊裊如蓬
隨雲忽已過重重山

何日是鄉關雁信
悠悠難寫盡心情
夜聞妙諦鍾聲
海門鼓響御城炮催

江曲曲腸迴曲曲
景悠悠夜復悠悠
蕭條館旅亭秋
鄰家樁楮江頭棹聲

嗟客地吁縈心事
嘆閨人情緒可憐
更深燈滅案前
含情掩扇空懸月明

孤枕裡三更寤寐
片幽懷誰是為憐
情頭夜半無人
睡來報蝶醒辰鳴雞

有時或鄉閨夕炤
下堂來欲造花樓
忽驚燕葺泥巢
鸞羞炤鏡鳳愁懶梳

有時或織機夜靜
呼童來初整燈明
忽聞雁渡江聲
机慵足踏梭停手拋

可憐夜焚膏達旦
夜沉沉不見佳音
擲梭望望庭陰
霜寒蟋蟀咱吟聲愁

望不見悠悠我獨
顧閨門載復言還
咱家雞唱西欄
含情倚几挑殘孤燈

可憐日燈庭自早
日斜斜不到回書
挈衣步步康衢
蟬鳴楊柳帶愁眉看

望不見翻翻我獨
顧琴軒強欲為情
忽瞻蝶戲蘭屏
含棲穿屩復行西園

今必謂秋天靜好
我良人將到歸期
遑知世路蹺蹊
關山千里未期曷來

今必謂我離永久
自長安或抱衾裯
風情慣似風流
繁花矧又皇州帝城

苟非有人情也者
胡而春而夏而秋
由來紫閣紅樓
英雄不住丈夫難持

如此者誰知之者
煙波中使我心愁
昂藏豈少年遊
風流舊態江湖故家

旅景每從哦裡痛
鄉魂空向夢中遊
江山客亦知乎
情中更切路途艱難

雖曰已藻蘋婦事
內齊家上祀祖先
澗毛潢水微虔
安知主饋能賢婦人

可知者十分家幼
一門中共保無危
別時正在孩兒
年來想已髮垂牙生

可愛者其兄之子
年十三十四中來
吾兄亦曰幸哉
底今未覺誰開學堂

可思者同窗二契
芝蘭香細細猶聞
馬杯自挹輕塵
渭城此後故人亦辭

不知後北圻起匪
二吾兄已未回辰
嗟哉同病相憐
一瀟湘一向秦一方

將何日更相對語
敘閨情又敘客衷
而今秋月秋風
秋吟秋飲情中者誰

對離景淚垂雙眼
顧香關路限重山
酒殘獨倚欄杆
覺來眼看夜還淒涼

 

Thu dạ lữ hoài ngâm

Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước
Cách sơ liêm đạm chước kim lôi
Thiên thời nhân sự tương thôi
Phù sinh nhược mộng kỷ hồi vi hoan

Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu
Cảnh liêu nhân thụ sảo phong xuy
Giá ban liệu thiểu nhân tri
Nhàn lai phong nguyệt dữ thuỳ vi thu

Thi tứ tuyệt di du nhã ái
Tửu tam bôi tiêu sái ly hoài
Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân

Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tiến giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn sơn ám nhận khách thuyền cánh phi

Khúc giang thuỷ hà thì Đại Đỗ
Nhất cô chu hệ cố viên tâm
Thời lưu bát thủ thi ngâm
Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình

Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ
Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh
Nhi kim cúc dĩ hàm anh
Liễu âm đình ngoại hàn minh thu thuyền

Tích ngã khứ phiên phiên đào kiểm
Lưỡng tam chi sơ chiếm đông phong
Nhi kim lan dĩ thành tùng
Đào yêu hiên ngoại lạc tùng hàn sương

Hồ vi hồ thê lương khách xá
Nhật ưu du kỷ cá quan đồng
An năng dạ dạ thư phòng
Ba tiêu khấp lộ côn trùng minh thu

Hồ vi hồ di du lữ quán
Tuế thuân tuần dĩ bán sương yên
An năng mộ mộ thư hiên
Phong dao đình trúc nguyệt huyền ốc lương

Bất thị tố hà lang đầu bút
Tương trung can vị quốc tòng quân
Thử thân không mạo phong trần
Toạ trung hư thị tẩm thần (thì) đồ văn

Bất thị tố hà nhân phủng hịch
Tương hiếu tâm ly thích tòng quan
Tha hương hà sự bàn hoàn
Bạch vân phi xứ mẫu đơn khai thần (thì)

Kim nhật tự hải tân viễn cố
Nhất khinh phàm trực độ quy lăng
Hương hồn phí phí như tăng
Trục phàm hốt dĩ phá tằng tằng ba

Minh nhật tự sơn gia viễn diểu
Phiến cô vân đới hiểu phù không
Hương tâm niểu niểu như bồng
Tuỳ vân hốt dĩ quá trùng trùng san

Hà nhật thị hương quan nhạn tín
Du du nan tả tận tâm tình
Dạ văn Diệu Đế chung thanh
Hải môn cổ hưởng ngự thành pháo thôi

Giang khúc khúc trường hồi khúc khúc
Cảnh du du dạ phục du du
Tiêu điều quán lữ đình thu
Lân gia thung chử giang đầu trạo thanh

Ta khách địa hu oanh tâm sự
Thán khuê nhân tình tự khả liên
Canh thâm đăng diệt án tiền
Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh

Cô chẩm lý tam canh ngụ mị
Phiến u hoài thuỳ thị vi lân
Tình đầu dạ bán vô nhân
Thuỵ lai báo điệp tỉnh thần minh kê

Hữu thì hoặc hương khuê tịch chiếu
Hạ đường lai dục tháo hoa lâu
Hốt kinh yến tập nê sào
Loan tu chiếu kính phụng sầu lãn sơ

Hữu thì hoặc chức cơ dạ tĩnh
Hô đồng lai sơ chỉnh đăng minh
Hốt văn nhạn độ giang thanh
Cơ dung túc đạp thoa đình thủ phao

Khả lân dạ phần cao đạt đán
Dạ trầm trầm bất kiến giai âm
Trịch thoa vọng vọng đình âm
Sương hàn tất suất thính ngâm thanh sầu

Vọng bất kiến du du ngã độc
Cố khuê môn tải phục ngôn hoàn
Thính gia kê xướng tây lan
Hàm tình ỷ kỷ khiêu tàn cô đăng

Khả lân nhật đăng đình tự tảo
Nhật tà tà bất đáo hồi thư
Khiết y bộ bộ khang cù
Thuyền minh dương liễu đới sầu mi khan

Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc
Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình
Hốt chiêm điệp hý lan bình
Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên

Kim tất vị thu thiên tĩnh hảo
Ngã lương nhân tương đáo quy kỳ
Hoàng tri thế lộ nhiêu khê
Quan san thiên lý vị kỳ hạt lai

Kim tất vị ngã ly vĩnh cửu
Tự Trường An hoặc bão khâm trù
Phong tình quán tự phong lưu
Phồn hoa thẩn hựu hoàng châu đế thành

Cẩu phi hữu nhân tình giả dã
Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thâu (thu)
Do lai tử các hồng lâu
Anh hùng bất trụ trượng phu nan trì

Như thử giả thuỳ tri chi giả
Yên ba trung sử ngã tâm sầu
Ngang tàng khởi thiếu niên du
Phong lưu cựu thái giang hồ cố gia

Lữ cảnh mỗi tòng nga lý thống
Hương hồn không hướng mộng trung du
Giang sơn khách diệc tri hồ
Tình trung cánh thiết lộ đồ gian nan

Tuy viết dĩ tảo tần phụ sự
Nội tề gia thượng tự tổ tiên
Giản mao hoàng thuỷ vi kiền
An tri chủ quỹ năng hiền phụ nhân

Khả tri giả thập phần gia ấu
Nhất môn trung cộng bảo vô nguy
Biệt thì chính tại hài nhi
Niên lai tưởng dĩ phát thuỳ nha sinh

Khả ái giả kỳ huynh chi tử
Niên thập tam thập tứ trung lai
Ngô huynh diệc viết hạnh tai
Để kim vị giác thuỳ khai học đường

Khả tư giả đồng song nhị khế
Chi lan hương tế tế do văn
Mã bôi tự ấp khinh trần
Vị Thành thử hậu cố nhân diệc từ

Bất tri hậu Bắc kỳ khởi phỉ
Nhị ngô huynh dĩ vị hồi thần
Ta tai đồng bệnh tương lân
Nhất Tiêu tương nhất hướng Tần nhất phương

Tương hà nhật cánh tương đối ngữ
Tự khuê tình hựu tự khách trung
Nhi kim thu nguyệt thu phong
Thu ngâm thu ẩm tình trung giả thuỳ

Đối ly cảnh lệ thuỳ song nhãn
Cố hương quan lộ hạn trùng san
Tửu tàn độc ỷ lan can
Giác lai nhãn khán dạ hoàn thê lương


Sách Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và Thu dạ lữ hoài ngâm của Georges Cordier (Nhà in Kim Đức Giang, Hà Nội, 1925) ghi tác giả bài này là Ngô Điền, người Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức, trước làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi, lâu không được về quê nên có viết khúc này để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách.

Sách Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm của Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn (Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008) ghi tác giả là Đinh Nhật Thận. Bản này dựa trên bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất, và đã được đối chiếu với các bản của Trường Thịnh Đường (in mộc bản năm 1902) và bản Nguyễn Văn Đề công bố trong cuốn Trong 99 chóp núi (do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4-7-1941) tại Huế. Theo đó, Đinh Nhật Thận làm bài này trong thời gian bị triều đình bắt giữ cho rằng ông liên luỵ với khởi nghĩa của Cao Bá Quát tỏ nỗi lòng nhớ quê nhà.

[Thông tin 4 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Nhật Thận

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng,
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi.
“Thiên thời nhân sự tương thôi”,
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ,
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu.

Thơ nhã ái bốn câu buông vận,
Rượu ly hoài ba chén làm khuây.
Trước đèn trong chốn thư trai,
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thuỷ tiếng ngư văng vẳng,
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương,
Thuyền ai tưởng khách non Hàn, lại không!

Khúc ngư thuỷ nhớ ông Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ.
Hứng thu để tám bài thơ,
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.

Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm,
Gió đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã chồi sương,
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.

Làm chi vậy buồn rầu đất khách,
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây.
Có đêm nương bóng hồi tây,
Tiếng sương khóc lá hơi bay gọi trùng.

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ,
Năm, sương yên hết nửa đi rồi.
Có đêm ngồi nhẫn thư trai,
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đồng mác cho cam.
Luống đem thân thế cát lầm,
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai.

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong.
Bỗng không cách địa binh bồng,
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn.

Ngày nay đứng trông miền bể rộng,
Một cánh buồm gióng thẳng về cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn,
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng,
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa.

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu Đế cho rền,
Trống vang cửa bể, súng rên thành vàng.

Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuống thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp, thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn.

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc,
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang.
Xuống thềm ra đứng bên đàng,
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê,
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.

Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng.
Non sông khách có biết chăng,
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức,
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị Thành lúc ấy rồi mà Dương Quan.

Sau chẳng biết ngoài miền bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu Tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu ly biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can,
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.


Bản dịch này theo bản trong Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua “Thu dạ lữ hoài ngâm” (Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn, Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008).
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
25.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Nhật Thận

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng,
Cách rèm thưa rót chén kim bôi.
Gẫm xem thời sự sụt sùi,
Cõi phù mấy thuở làm vui cho đời.

Người ngắm cảnh, trăng soi hoa nở,
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm mấy kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm ngày với thu.

Thơ nhã ái bốn câu ba vận,
Rượu ly hoài vài chén làm khuây.
Trước đèn trong chốn thư trai,
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.

Ngoài Hương thuỷ tiếng ngư văng vẳng,
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên dương?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương,
Non hàn thuyền khách trông nhường như bay.

Khúc ngư thuỷ nhớ ngày Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ.
Mấy thu để tám bài thơ,
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.

Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm,
Ngọn đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã rỏ sương,
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.

Làm chi vậy buồn rù đất khách,
Nhật quán đồng mượn thích làm khuây.
Có đêm nương bóng hồi tây,
Ba tiêu khóc lệ, hơi may ngâm trùng.

Làm chi vậy dở dang quán lữ,
Năm, sương yên kế nửa vừa rồi.
Có khi ngồi nhẫn thư trai,
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đồng mác cho cam.
Luống đem thân thế cát lầm,
Khóc ngồi hổ mặt, nghe nằm thẹn tai.

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong.
Bỗng không khách địa binh bồng,
Trông mây lại nhớ, xem bông lại phiền.

Ngày nay đứng trông miền bể rộng,
Một cánh lá buồm thẳng gióng Giang Lăng.
Lòng quê đâu đã bâng khuâng,
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bong,
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa.

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu Đế khua rền,
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng.

Lòng quanh quéo sông càng quanh quéo.
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Canh khuya những mơ mòng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn.

Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bó xiêm lửng thửng bên hè,
Mày sầu khóm liễu dì dì khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.

Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế khắt khe
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Này hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu tính đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại người Tràng An.

Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru,
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường.
Giang hồ dù có biết thương,
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức,
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu Tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can,
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.


Bản này theo Văn đàn bảo giám (NXB Văn học, 2004).
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Nhật Thận

Đêm thu rạng bóng giăng thấp thoáng,
Cách rèm thưa rót chén kim lôi.
Gẫm xem thời sự sụt sùi,
Cõi phù mấy thủa làm vui với đời.

Người ngắm cảnh giăng soi hoa nở,
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm mấy kẻ tỏ hay,
Cùng ai giăng gió đêm ngày thưởng thu.

Thơ nhã ái bốn câu ba vận,
Rượu ly hoài vài chén làm khuây.
Trước đèn trong chốn thư trai,
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.

Ngoài Hương thuỷ tiếng ngư văng vẳng,
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương,
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.

Khúc ngư thuỷ nhớ ngày Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ.
Mấy thu để tám bài thơ,
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.

Khi ta đi liễu đang xanh tốt,
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm,
Gió đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã rò sương,
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.

Làm chi vậy buồn dù đất khách,
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây.
Có đêm nương gối phòng tây,
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng.

Làm chi vậy giở dương quán lữ,
Năm sương yên kể nửa vừa rồi.
Có khi ngỗi nhẫn thư trai,
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đồng bác cho cam.
Luống đem thân thế cát lầm,
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai.

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong.
Bỗng không cách địa binh bồng,
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền.

Ngày nay đứng trông miền bể rộng,
Một cánh buồm gióng thẳng Giang Lăng.
Lòng quê luống những bâng khuâng,
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa.

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu Đế cho rền,
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng.

Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khuê đèn.

Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về.
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.

Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường sá khắt khe,
Dặm ngìn hồ dễ đi về cho năng.

Nay hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Trường An.

Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy du,
Anh hùng kia mấy trượng phu ai từ.

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên hoa khôn xiết dạ sâu.
Há còn tuổi trẻ chi đâu,
Phong lưu tính cũ giang hồ thói xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm nghìn.
Giang hồ dù có biết thương,
Thiết tình lại nhớ những đường rậm khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu nhờ trời cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng hộ cho anh,
Năm nay biết có học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri kỷ,
Mùi lan chi thêm nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi chăng?
Mới hay cùng bệnh thêm thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu Tương một giời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Cảnh li biệt lệ đầy nước mắt,
Bóng hương khuê xa cách dặm ngìn.
Rượu rồi ngồi tựa câu lơn,
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.


Bản này theo Thu dạ lữ hoài ngâm (Georges Cordier, Nhà in Kim Đức Giang, Hà Nội, 1925).
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Đề

Đêm thu lặng trời thu trong suốt,
Cách rèm thưa, lặng rót chén vàng.
Cơ trời, việc thế đa đoan
Kiếp phù mấy thuở bày tuồng làm vui.

Người đối cảnh hoa cười bóng nguyệt,
Cảnh trêu người, gió nguýt ngọc cây.
Dường này dễ mấy ai hay?
Cùng ai với gió trăng này làm thân?

Thơ khiển hứng hạ vần nhã ái,
Rượu tiêu sầu lưng túi ly hoài.
Một đèn riêng một thư trai,
Nhớ thân muôn dặm thương người nghìn thu.

Ngoài bến nọ, tiếng ngư vang dội,
Thuyền đậu chèo dọc mãi sông Hương.
Mơ màng đêm nguyệt trời sương,
Non Hàn tưởng khách thơ Đường là ai!

Trên sông Khúc nào hồn Tử Mỹ,
Chiếc bè trôi, chạnh ý ly hương?
Cảm thu truyền lại tám chương
Khéo xui lòng khách dễ vương tình lòng?

Khi ta đi liễu đang xanh tốt,
Một vài câu vừa hót chim oanh.
Mà nay cúc nở vang cành,
Liễu kia, ve khóc buồn tanh ngõ ngoài.

Xưa ta đi, đào cười nhí nhoẻn,
Một đôi cành vừa bén gió đông,
Mà nay lan rợp như rừng,
Đào theo sương rụng lung tung phía ngoài.

Làm chi vậy lẻ loi quán trọ,
Ngày ba thằng măng sữa nghêu ngao.
Đêm đêm án sách gục vào,
Lá thân sương nặng, dế kêu thu buồn.

Làm chi vậy gầy mòn điếm lữ?
Chốc nửa năm sương gió lân la,
Đêm đêm hiên vắng nhìn ra,
Gió lay ngọn trúc, trăng sa mái hồi.

Nào có phải như ai vì nước,
Vứt bút mà đòng mác cho cam.
Khi không rước lấy cát lầm,
Hổ ngồi giương mắt, thẹn nằm nghiêng tai!

Nào có phải như ai vì hiếu,
Vâng hịch mà bôn tẩu chẳng nài!
Việc gì lần lữa quê người?
Mây che núi cũ, hoa cười thôn cô

Rày đứng ngóng trên bờ trên biển
Lá buồm ai về bến thẳng giong.
Lòng quê sôi nổi như nung,
Phút theo buồm vượt mấy trùng phong ba.

Mai đứng ngóng nhà kia trên núi,
Làn mây cô trôi nổi bềnh bồng
Lòng quê rối tựa bòng bong,
Phút theo mây kéo mấy trùng quan san.

Phương nào tá tin nhàn núi cũ?
Bút mực đâu tả đủ niềm đơn?
Bên chùa Diệu Đế chuông dồn,
Trên thành súng nổ, dưới đồn trống vang.

Sông quằn quặn, ruột càng quằn quặn.
Cảnh rầu rầu, dạ vẫn rầu rầu.
Lạnh lùng đất khách trời thâu.
Kìa! ai giã gạo? Ờ! đâu khua chèo?

Ngoài nghìn dặm rối meo tâm sự,
Chốn phòng khuê vò võ thương ai!
Canh khuya che quạt lặng ngồi,
Mặc đèn lu ngọn, kệ trời sáng trăng!

Trên gối chiếc đêm tràng tráo trở
Mảnh tình riêng than thở cùng ai?
Đã khuya trông chửa thấy người,
Ngủ mơ màng bướm, dậy oi óc gà.

Hoặc có lúc trước nhà bóng đổ,
Bước xuống thềm lại trở lên lên lầu.
Phút trông én ngậm bùn đâu.
Phượng buồn bã lược, loan rầu rĩ gương.

Hoặc có lúc trong buồng đêm vắng,
Gọi khêu đèn, hòng gắng dệt khuya,
Bỗng nghe nhạn vượt sông kia,
Ác buông trôi máy, én lìa ngưng thoi.

Thương thay có đêm ngồi suốt sáng,
Đợi cả đêm, thư chẳng thấy nao!
Vứt thoi ra ngóng trước lầu,
Dế than sương lạnh rót sầu vào tai!

Chẳng thấy ai, riêng càng tức tối,
Đành ôm lòng trở lại buồng thêu.
Nhà bên gà đã gáy vèo,
Nghĩ đâu dựa ghế còn khêu hao đèn.

Thương thay cứ ngày quen dậy sớm,
Đợi tối ngày tin vẫn vắng đâu.
Day tà áo, dạo quanh lầu
Liễu kia ve khóc rủ sầu ngang mi.

Chả thấy gì, lại còn lủi thủi,
Gượng ôm cầm dạo mấy đường tơ,
Bình lan bướm vội theo đùa,
Bực thôi xỏ dép bỏ ra thăm vườn.

Giờ hẳn nói: “Trăng tròn lại tỏ”,
Để đến ngày “Gương vỡ lại liền”!
Biết đâu đường thế trần phiền,
Người đi chưa dễ biết phen nào về!

Thôi lại bảo mình e ở mãi,
E kinh đô đã phải lòng ai!
Làng chơi quên thói ăn chơi.
Đất phồn hoa ấy lại trời Phú Xuân!

Chẳng vì tiếc xuân nên nán ná,
Sao xuân rồi, lại hạ, rồi thu?
Mấy nơi gác tía rèm chu,
Anh hùng hào kiệt chưa từ lọ ai?

Như thế ấy ai người biết với?
Trong yên ba riêng tủi lòng này.
Phải chăng trai trẻ những ngày,
Rằng ưa đài các? Rằng hay giang hồ?

Câu lữ cảnh mượn ru ly hận,
Hồn hương quan vơ vẩn đêm trường.
Ai mà nghĩ đến mà thương.
Vì ai thêm xót nỗi đường cam gay!

Nghề nội trợ đã hay rằng thế,
Việc tổ tiên thì để trên đầu.
Rau khe, nước suối mặc dầu,
Một tay trăm việc chắc đâu lo tròn?

Duy biết chắc đàn con mạnh giỏi,
Lòng chẳng nghe ái ngại điều chi!
Ngày đi trẻ dại biết gì,
Tóc răng rày đã ra bề đã khôn!

Dễ thương nhỉ thằng con anh trưởng!
Tuổi mười ba, mười bốn chi rồi!
Anh mình hẳn lấy làm vui,
Năm này cháu đã theo ai sách đèn.

Nhớ đèn sách khôn quên hai bạn,
Mùi chi lan thoang thoảng còn hoài,
Chén đưa nào lúc khuyên nài,
Vị thành lúc ấy là rồi chia tay.

Sau đất Bắc đường đầy binh lửa,
Hai anh ta về ở bề nào?
Bịnh chung, chung mối thương đau
Thương ôi kẻ đấy người đâu một trời?

Bao giờ lại cùng ngồi chuyện vãn,
Chuyện gần xa lòng gạn hỏi lòng?
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu, ai chung với nào?

Trông đất khách, lệ trào đôi mắt,
Ngóng quê nhà, đường mắc nghìn non.
Rượu rồi gục xuống câu lơn.
Chiêm bao mở mắt, đêm còn hoàn đêm!


In trong Trong 99 chóp núi, Đẩu Tiếp, NXB Tân Việt, Hà Nội, 1942.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Chưa có đánh giá nào
Trả lời