Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Đặng Đức Siêu
Đăng bởi Vanachi vào 21/11/2007 09:06
Than rằng:
Đạo thần tử hết lòng thờ Chúa, gian nan từng giãi dạ trung thành;
Đấng anh hùng vì nước quên mình, điên bái chẳng sai lòng tiết nghĩa.
Ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai;
Trúc dẫu cháy tiết ngay vẫn để.
Nhớ hai người xưa:
Thao lược ấy tài;
Kinh luân là chí.
Phù vạc Hán thuở ngôi trời chếch lệch, chém gai đuổi lũ hung tàn;
Với xe Đường khi thế nước chông chênh, cầm bút ra tay kinh tế.
Mối nghĩa sánh duyên gác tía, bước gian truân từng vững dạ khuông phù;
Màn kinh giúp sức cung xanh, công mông dưỡng đã đành lòng uỷ ký.
Hậu quân thuở trao quyền tứ trụ, chữ ân uy lớn nhỏ đều phu;
Lễ bộ phen làm việc chính khanh, bề trung ái sớm khuya chẳng trễ.
Ngoài cỏi vuốt nanh ra sức, chí tiêm cừu từng trải xuống ba quân;
Trong thành then khoá chia lo, lòng ưu quốc đã thấu lên chín bệ.
Miền biên khổn hai năm chia sức giặc, vững lòng tôi bao quản thế là nguy;
Cõi Phú Xuân, một trận thét uy trời, nặng việc nước phải lấy mình làm nhẹ.
Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết, ngọn quang minh hun mát tấm trung can;
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí.
Há rằng ngại một phen thỉ thạch, giải trùng vi mà tìm tới quân vương;
Bởi vì thương muôn mạng tì hưu, thà nhất tử để cho toàn tướng sĩ.
Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió, ân tín xưa người bộ khúc thương tâm;
Bóng tinh trung thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ kẻ liêu bằng sái lệ.
Cơ đẵng định kíp chầy đành hẹn buổi, xót tướng doanh sao vắng mặt thân huân;
Phận truy tuỳ gang tấc cũng đền công, tiếc nhung mạc bỗng thiệt tay trung trí.
Nay gặp tiết thu;
Bầy tuần quý tế.
Hai chữ cương thường nghĩa nặng, rõ cổn hoa cũng thoả chốn u minh;
Nghìn thu hà nhạc khí thiêng, sắp mao việt để nền bình trị.
Hỡi ôi! Thượng hưởng!
Nghĩa đen: đổ lộn, nghĩa bóng: loạn lạc. |
Có bản chép là "chẳng lay". |
Phương pháp và mưu mô trong việc binh. |
Tài sắp đặt việc chính trị, xã hội. |
Phù: giúp; vạc dịch từ chữ đỉnh, biểu hiện của Ngôi vua; Hán, tên triều vua bên Tàu. Câu này ý giúp nhà vua khi hoạn nạn. |
Với xe Đường khi thế nước chông chênh (với: kéo lại; xe Đường: xe vua Đường Huyền Tôn chạy vào đất Thục khi có loạn An Lộc Sơn) vãn hồi vận nước khi có nguy biến. |
Do chữ kinh bang tế thế, sửa việc nước và giúp đời. |
Gác tía: chỗ công chúa ở, nói về Võ Tánh lấy công chúa Ngọc Du, em vua Gia Long. |
Màn kinh: cái màn của ông thầy ngồi giảng sách; cung xanh: cung Thái tử ở, nói về việc ông Ngô Tùng Châu dạy Hoàng tửi Cảnh học. |
Nuôi dạy trẻ con. |
Bốn cột cái, 4 vị tướng Tả Hữu Tiền Hậu. |
Tin phục. |
Chức quan trên bậc Thiếu Khanh, quan to. |
Giết kẻ thù. |
Lo việc nước. |
Nơi biên thuỳ. Bấy giờ vua Gia Long mới thu phục được đất Gia Định, nên thành Qui Nhơn cũng kể là nơi biên thuỳ. |
Vì ông Võ Tánh giữ Qui Nhơn, quân mạnh Tây Sơn vây thành nầy nên không thể dời đấy mà ra ngoài Phú Xuân được. |
Lúc đó là kinh đô của Tây Sơn Cảnh Thịnh, nay là Huế. |
Cửa hoàng thành ở phía bắc. Bấy giờ chúa Nguyễn đang ở Phú Xuân, tức phía bắc thành Quy Nhơn. |
Cay đắng chỉ thuốc độc. |
Cái khí tiết ngay thẳng của những bậc trung thần, nghĩa sĩ. |
Tên và đạn. |
Tên hai loài mãnh thú, chỉ quân hùng dũng. |
Các đội ngũ trong quân. |
Hồn trung nghĩa thiêng liêng. |
Bè bạn cùng làm quan. |
Dẹp yên giặc giã. |
Thân với nhà vua và có công to. |
Theo đòi. |
Màn quan tướng ở trong quân. |