Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Đặng Đức Siêu
Đăng bởi tôn tiền tử vào 28/08/2014 03:50
Hỡi ôi!
Mấy năm dư tri ngộ, tính chửa rồi trong cuộc chinh chu;
Năm mươi lẻ xuân thu, sao nỡ rẽ ngoài vòng cực lạc.
Lấy ai nhỡ giúp dựng việc nhà;
Lấy ai cậy chung lo việc nước.
Nhớ đức Thượng sư xưa:
Suốt giải kiền khôn;
Khỏi trên nhân vật.
Học kinh thánh mảng theo đạo thánh, từ Tây Thiên chẳng đoái công danh;
Giữ tình giời mong hoá dân giời, qua Đông thổ vui niềm nhân đức.
Trải năm lạnh thu sương nhiều thuở, đứng cho gắng tiết bách tòng;
Rửa cốt phàm nước trí một bầu, đâu đó nghiêng lòng quy hoắc.
Duyên giải cấu liền vây cửa Bắc, yến gia tân từng ngâm ngời lộc minh;
Vận trung hưng chăm giúp triều Nam, cơ liệu địch đã sẵn sàng hỗ lược.
Tục người khác mà tấm lòng chẳng khác, chia vàng đã rõ bạn tương tri;
Thù nước riêng mà tấc dạ chẳng riêng, rèn đá quyết vá trời Việt quốc.
Ngỡ thấy nhà Lưu vận ách, đất Hứa Xương rộng rãi, đã khó khăn giặc quỷ Tào Man;
Từng than thế Hán thiếu binh, nơi Tân Dã hẹp hòi, lại khôn dụng đồ chiêm Gia Cát.
Cùng thuyền Bá Việt, dìu dắt đưa lá ngọc cành vàng;
Kể nỗi gian truân, nhục nhằn trải non xanh bến bạc.
Ra Thổ châu, vào Phú Quốc, giặc sau lưng theo đuổi, cùng nhau hầu khôn chước giải nguy;
Đồ khôi phục, liệu tá binh, con dưới gối lìa trao, muốn việc đã đành lòng ký thác.
Vì người mưu hết sức, ngừng lệ phân tiệc khách đông nam;
Hiềm sự cả khác lòng, rắp mình ẩn góc trời tây bắc.
Thức nhắp lo toàn Triệu bích, mảng tai nghe yên đảng Nguỵ Lâm;
Hôm mai nuôi dưỡng Hán chừ, rắp cánh nhẹ trông miền tử khuyết.
Một nhà tương khách, ơn lão trượng xiết bao;
Thuở trước huân đào, điểm tiền tinh sáng quắc.
Ra công giúp của, khi loạn ly từng đỡ ngặt nước nhà;
Nói gót rỉ tai, việc triều chính đã tin nhau gan mật.
Dỏ cơm trên cảm tình Cao đế, trí cả đành giúp một cánh tay;
Nắm gạo từng làm núi Phục Ba, thế giặc thấy rõ đôi con mắt.
Dải Duyên Khánh bốn bề sa mạc, lòng bề dạ gắng giúp Đông cung khoẻ sức chống thành;
Thu Quy Nhơn một luỹ Đồ Bàn, thẻ vận màn che, khiến tây tặc cuối đầu quay bước.
Ra Bến Đá dưa nên bệnh quỷ, bệnh lại thêm dũ nhật dũ tăng;
Về Kỳ Sơn cầu chuộc thuốc tiên, thuốc khôn giúp tư nhân tư tật.
Ôi!
Tôn khách băng chừng;
Thiên đường nhẹ bước.
Sao khách Tử Lăng sớm xế, đoái nhìn lệ luống mông mênh;
Toà nhà Quan Vũ đeo sầu, tranh tưởng long càng thổn thức.
Chép miệng ngẫm được thành Nhạc Bối, song thành kia dễ tạo, tuy rằng mừng chẳng lấy làm mừng;
Vỗ vế than chếch bạn tây song, tưởng bạn ấy khôn cầu, vậy nên tiếc khôn nguôi nỗi tiếc.
Ngày sâu khắc mảng lo chấp chính, vậy càng ngây mắt Thuấn mày Nghiêu;
Đêm năm canh chợt nhớ cố nhân, chẳng êm dựa gối loa nệm hạc.
Cảm là cả một mai đại cửu, ngõ dùng mưu giết giặc, ai hầu cùng ngồi chốn át duy;
Thương là thương muôn dặm viễn phương, vì tính việc cho ta, chế chẳng về nơi cực lạc.
Nào thuở nước Lang Sa, thành Vọng Các, đường xa dặm thẳm, mấy thu trời ai được gặp nhau;
Bây giờ miền âm giới, cõi dương gian, kẻ mất người còn, ba tất đất mà không thấy mặt.
Trăm mình khó chuộc, gác tía đà mất đấng trí năng;
Một giấc chẳng về, cung xanh lại không ai vũ đực.
Đổi con trẻ cho mà dạy đó, lối cổ nhân dấu hãy rành rành;
Dứt nghĩa này chẳng gác về đâu, trông thiên giới gót đà phần phật.
Phận tân chủ sẻ chia hai ngả, bồi hồi xiết chạnh lòng đau;
Tả ân tình lạo thảo một văn, điếu tế tạm dùng lễ bạc.
Công nặng đó, của thêm nặng đó, ngàn vàng chưa dễ đền bồi;
Còn tưởng nhau, chết cũng tưởng nhau, trăm thuở hãy còn ghi tạc.
Than ôi! Thương thay!
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi Lôi Bất Chấn ngày 20/11/2017 10:50
Do trong tay không có bản gốc chữ Nôm nên tại hạ chỉ suy luận dựa vào nghĩa lý câu chữ, cùng với văn cảnh và luật đối:
Lòng quy hoắc: Lòng quỳ hoắc
Ngâm ngời: ngâm ngợi
Khó khăn giặc quỷ: khó ngăn giặc quỷ
Lòng bề: Lòng bền
Cuối đầu: cúi đầu (đọc theo giọng Huế)
Long càng: lòng càng
Ngày sâu khác: ngày sáu khắc
Gối loa: gối loan
Cảm là cả: cảm là cảm
Ba tất: ba tấc (giọng Huế)
Vũ đực: vũ dực
Thuở trước huân đào: có lẽ là thuở nước huân đào vì chữ nôm nước và trước hơi giống nhau, nước đối với nhà ở câu trên mới chỉnh.