Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.

45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.

Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105. Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115. Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.


Bài này còn gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương tuần báo năm 1939 thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).

Sách Từ điển văn học (bộ mới) cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là GS. Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895 của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hãn đã khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đã đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn.

Trích đoạn bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Nội dung “Văn tế thập loại chúng sinh”

Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết. Tuy “mỗi người một nghiệp khác nhau” nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là “kẻ trước người sau mà thôi!

Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào? Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà.

Con người khi sống trong xã hội thì có phân biệt cao thấp sang hèn nhưng khi chết thì đều bình đẳng! Nhất là chết mà trở thành cô hồn:

Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người!
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngủ
Cụ Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh “trường dạ tối tăm” bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhaụ Nói là “thập loại” nhưng bài văn đã kể ra cả thảy 16 nghiệp cảnh. Chữ “mười” ở đây không phải là số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, toàn vẹn như trong cách nói “mười phân vẹn mười”, “nhân vô thập toàn”...

Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế là:
1. Những kẻ “tính đường kiêu hãnh” tham danh vọng mà quên mạng sống.
2. Những kẻ giàu sang sống trong “màn loan trướng huệ” tự kiêu, tự mãn về nhan sắc...
3. Những kẻ làm quan to “mũ cao áo rộng” cầm ngọn bút sinh sát trong taỵ..
4. Những tướng sĩ “bài binh bố trận” “đemmình vào cướp ấn nguyên nhung” phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình...
5. Những kẻ tính đường tr6i phú bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang...
6. Những kẻ “rắp cầu chữ quý”
7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguỵ..
8. Những kẻ thương buôn đường xa
9. Những kẻ phải đi lính
10. Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào “buôn nguyệt bán hoa”
11. Những người hành khất “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”
12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên
13. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng
14. Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha
15. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thuỷ, hoả, ác thú...
16. Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc

Nêu ra cảnh khổ của cõi âm Nguyễn Du muốn cảnh giác cõi dương là nơi mà cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và hung hãn... Tác giả nhắc cho mọi người thấy rõ rằng:
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi
Và cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ ph6ep Phật mà thoát khổ. Lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thoát trong luân hồi. Văn tế Thập loại Chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa Ngục để báo hiếu.


Nguyễn Châu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
174.06
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

cảm ơn

cảm ơn nhìu

93.33
Trả lời
Ảnh đại diện

Thêm

Hôm nào có đánh lại máy cho 1 bác, xin thêm vài ý cho hoàn chỉnh 1 bài văn cúng

Nam Mô Đại Thánh Khai Giáo nam đà tôn giã tiếp dẫn chúng sinh. Đông, Tây, Nam, Bắc, nam nữ thập loại đẳng chúng sinh.
Nghe văn tôi thỉnh.
Nghe tiếng tôi mời ở gần thì ra.
Ở xa thì tới
Người thời không quần, không áo.
Người thời không cháo, không cơm.
Người thời rách rưới ôm thân mà về.
Về đây đông đủ, đông đúc.
Đông rồi ai ai đến đây dưới trên ngồi lại của làm duyên chẳng ngại bao nhiêu.
Hôm Nay tại: …………………………..Ngày……Tháng……Năm……
Đồng bổn hội chúng tôi thiết lễ cúng cô hồn nên giờ này.
Phật chia đều cho chúng sinh, Phật hữu tình Từ Bi Phổ Độ chớ ngại rằng có có chăn chăn.
Nam Mô Đà Chư Phật Pháp Tăng độ cho nhất thiết siêu thăng linh hồn.
Nam Mô Bồ Tát Thế Tôn
Chứng minh thập loại cô hồn……Khi rằm xuống không ai nhắn nhủ.
Cửa phủ vần có cũng như không.
Sống thời tiền chảy bạc đồng.
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma muốn thương người hàng xóm.
Cũng có người thắp đóm đi đêm
Ngẩn ngơ trông quản đồng chim.
Tàn sương giọt nước biết tìm vào đâu.
Cũng có kẻ rấp cầu chữ quới,
Dẫn mình vào Thành Thị lâm la.
Mấy thu lìa cửa, lìa nhà.
Văn chương đã chắc đâu mà chi thân.
Dọc ngang quán phải dầm mưa nắng.
Vợ con nào nuôi nấng như xưa.
Vội vàng liệm sắp chôn nghiên.
Anh em thiên hạ láng giềng người đưa.
Bóng Phu Tử xa cùng hương khúc.
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang.
Cô hồn nhờ ngửi hơi nhang.
Gió tây hiu hắt lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể.
Cánh buồm chạy xé gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn vấp vào lòng kinh nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán.
Đòn gánh tre chạy nặng hai vai.
Gặp cơn giống tố giữa trời.
Hồn siêu phách lạc biết đâu bây giờ.
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính.
Bỏ cửa gồng gánh việc quan.
Nước khe cơm vắt gian nan giải dầu.
Ngàn dặm lầm than việc đời.
Giữa chiến trận mạng người như rác.
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi.
Tiếng oan văng vẳng trên trời còn thương.
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp.
Lúc tuổi xuân buôn nguyệt bán hoa.
Ngẩn ngơ khi trở về già.
Chồng con không có biết nhờ cậy ai.
Sống đã chịu một bề phiền não.
Thác lại nhờ bác cháu nén nhang.
Đau đớn thay cái phận đàn bà.
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu.
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Rồi tháng ngày hành khất ngược xuôi.
Thương thay cũng một kiếp người.
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường oan.
Cũng có kẻ mắc đầu trù dập.
Gởi mình vào chiếu rách một mảnh.
Đống xương chôn đắp góc thành.
Kiếp nào mở được oan tình ấy đi.
Kìa những đứa tiểu nhi thoi thóp.
Lỗi mua sanh lìa mẹ, lìa cha.
Lấy ai bồng bế xót xa.
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Cũng có kẻ chìm sông lạc suối.
Cũng có người sảy cội sa cây.
Có người leo giếng đứt dây.
Người trôi nước lũ, người xây luỹ thành.
Người thời sơn tích, thuỷ quấy.
Cũng có người mắc vào nanh hổ, ngà voi.
Có người xuất thế không đời.
Có người sa sỉ. Có người khốn thân.
Cũng có lúc đi đường lỡ bước.
Cầu nại hà kẻ trước người sau.
Mỗi người một nghiệp khác nhau.
Hồn siêu phách lạc biết đâu bây giờ.
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi.
Hoặc là nương ngọn gió chân mây.
Hoặc là trốn bỏ bóng cây.
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thân từ phật tự.
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sống.
Hoặc là gò đồng hoặc là cầu tre.
Sống đã chịu một bề thảm thiết.
Ruột bèo khô da héo lâm lâm.
Giãi dầu trong mấy ngàn năm.
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn.
Lặn mặt trời thơ thẩn mà ra.
Lôi thôi hồn trẻ hồn già.
Có linh thiêng đối lại hãy mè nghe kinh.
Nhờ phép phật xin thỉnh tịnh độ.
Phóng hào quang cứu khổ độ ưu.
Dắt lòng tư bi hồn tu bác ái.
Não tiền thân oán hận ngàn năm.
Nhờ Đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân Tam Giới Thập Phương.
Nhẫn nhẫn tiêu diệt đại đương.
Kinh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật oai linh dũng cảm.
Trong giấc mơ khuya tỉnh chiêm bao.
Mười loài là những loài nào.
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh.
Có chữ rằng vạn cảnh như không.
Ai ai lấy Phật làm lòng.
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đoàn chuẩn tế nghe lời Phật Giáo.
Của có chi bát cháo nén nhang.
Giúp cho món ăn làm của lên đường thăng thiên.
Hỡi chúng sinh ơi về đây ăn của người.
Phù hộ cho phúc đẳng hà sa.
Ai ở phương Đông, về phương Đông.
Ai ở phương Nam về hướng Nam.
Ai ở phương Tây về hướng Tây.
Ai ở phương Bắc thì về hướng Bắc.
Ăn mà không hết thời bỏ vào giỏ.
Giỏ mà đứt quai thôi đành cũng đội lên đầu lên vai mà về.
Nam Mô xin thỉnh tịnh độ Bồ Tát Ma Ha tát (3 lần hoặc nhiều lần)

53.80
Trả lời