26/04/2024 23:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Văn tế phò mã chưởng hậu quân Võ Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu

Tác giả: Đặng Đức Siêu - 鄧德超

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 20/11/2007 09:06

 

Than rằng:
Đạo thần tử hết lòng thờ Chúa, gian nan từng giãi dạ trung thành;
Đấng anh hùng vì nước quên mình, điên bái[1] chẳng sai[2] lòng tiết nghĩa.

Ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai;
Trúc dẫu cháy, tiết ngay vẫn để.

Nhớ hai người xưa:
Thao lược[3] ấy tài;
Kinh luân[4] là chí.

Phù vạc Hán thuở ngôi trời chếch lệch[5], chém gai đuổi lũ hung tàn;
Với xe Đường khi thế nước chông chênh[6], cầm bút ra tay kinh tế[7].

Mối nghĩa sánh duyên gác tía[8], bước gian truân từng vững dạ khuông phù;
Màn kinh giúp sức cung xanh[9], công mông dưỡng[10] đã đành lòng uỷ ký.

Hậu quân thuở trao quyền tứ trụ[11], chữ ân uy lớn nhỏ đều phu[12];
Lễ bộ phen làm việc chính khanh[13], bề trung ái sớm khuya chẳng trễ.

Ngoài cõi vuốt nanh ra sức, chí tiêm cừu[14] từng trải xuống ba quân;
Trong thành then khoá chia lo, lòng ưu quốc[15] đã thấu lên chín bệ.

Miền biên khổn[16] hai năm chia sức giặc[17], vững lòng tôi bao quản thế là nguy;
Cõi Phú Xuân[18], một trận thét uy trời, nặng việc nước phải lấy mình làm nhẹ.

Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết[19], ngọn quang minh hun mát tấm trung can;
Chỉ non sông giã với cô thành, chén tân khổ[20] nhắp ngon mùi chính khí[21].

Há rằng ngại một phen thỉ thạch[22], giải trùng vi mà tìm tới quân vương;
Bởi vì thương muôn mạng tì hưu[23], thà nhất tử để cho toàn tướng sĩ.

Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió, ân tín xưa người bộ khúc[24] thương tâm;
Bóng tinh trung[25] thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ kẻ liêu bằng[26] sái lệ.

Cơ đẵng định[27] kíp chầy đành hẹn buổi, xót tướng doanh sao vắng mặt thân huân[28];
Phận truy tuỳ[29] gang tấc cũng đền công, tiếc nhung mạc[30] bỗng thiệt tay trung trí.

Nay gặp tiết thu;
Bầy tuần quý tế.

Hai chữ cương thường nghĩa nặng, rõ cổn hoa cũng thoả chốn u minh;
Nghìn thu hà nhạc khí thiêng, sắp mao việt để nền bình trị.

Hỡi ôi! Thượng hưởng!
Đây là một bài điếu văn được Đặng Đức Siêu viết nhằm ca ngợi sự hy sinh của hai tướng Võ Tánh (?-1801, còn gọi là Võ Tính) và Ngô Tùng Châu (?-1801, còn được gọi là Ngô Tòng Chu), những người đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và hy sinh vì sự nghiệp của chúa Nguyễn Ánh (hoàng đế Gia Long sau này). Cuộc chiến tranh giữa anh em nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh kéo dài trong 25 năm từ 1777 đến 1802. Năm 1799, sau khi nắm quyền kiểm soát thành Bình Định (miền Trung Việt Nam), Nguyễn Ánh trở về căn cứ chính của mình tại Gia Định (miền Nam Việt Nam) và ra lệnh cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở lại để bảo vệ thành trì này. Năm 1801, quân đội Tây Sơn trở lại và bao vây thành, tìm cách ép hai vị tướng ra đầu hàng. Nguyễn Ánh muốn đem quân đến giải vây nhưng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đã khuyên Nguyễn Ánh nhân cơ hội này tấn công Phú Xuân còn hai người sẽ tìm cách giữ chân quân Tây Sơn ở Bình Định. Bị bao vây và không nhận được trợ giúp từ bên ngoài, cuối cùng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đã quyết định tự tử để biểu thị lòng trung thành của họ với Nguyễn Ánh.

[1] Nghĩa đen: đổ lộn, nghĩa bóng: loạn lạc.
[2] Có bản chép là “chẳng lay”.
[3] Phương pháp và mưu mô trong việc binh.
[4] Tài sắp đặt việc chính trị, xã hội.
[5] Phù: giúp; vạc dịch từ chữ đỉnh, biểu hiện của Ngôi vua; Hán, tên triều vua bên Tàu. Câu này ý giúp nhà vua khi hoạn nạn.
[6] Với xe Đường khi thế nước chông chênh (với: kéo lại; xe Đường: xe vua Đường Huyền Tôn chạy vào đất Thục khi có loạn An Lộc Sơn) vãn hồi vận nước khi có nguy biến.
[7] Do chữ kinh bang tế thế, sửa việc nước và giúp đời.
[8] Gác tía: chỗ công chúa ở, nói về Võ Tánh lấy công chúa Ngọc Du, em vua Gia Long.
[9] Màn kinh: cái màn của ông thầy ngồi giảng sách; cung xanh: cung Thái tử ở, nói về việc ông Ngô Tùng Châu dạy Hoàng tửi Cảnh học.
[10] Nuôi dạy trẻ con.
[11] Bốn cột cái, 4 vị tướng Tả Hữu Tiền Hậu.
[12] Tin phục.
[13] Chức quan trên bậc Thiếu Khanh, quan to.
[14] Giết kẻ thù.
[15] Lo việc nước.
[16] Nơi biên thuỳ. Bấy giờ vua Gia Long mới thu phục được đất Gia Định, nên thành Qui Nhơn cũng kể là nơi biên thuỳ.
[17] Vì ông Võ Tánh giữ Quy Nhơn, quân mạnh Tây Sơn vây thành nầy nên không thể dời đấy mà ra ngoài Phú Xuân được.
[18] Lúc đó là kinh đô của Tây Sơn Cảnh Thịnh, nay là Huế.
[19] Cửa hoàng thành ở phía bắc. Bấy giờ chúa Nguyễn đang ở Phú Xuân, tức phía bắc thành Quy Nhơn.
[20] Cay đắng chỉ thuốc độc.
[21] Cái khí tiết ngay thẳng của những bậc trung thần, nghĩa sĩ.
[22] Tên và đạn.
[23] Tên hai loài mãnh thú, chỉ quân hùng dũng.
[24] Các đội ngũ trong quân.
[25] Hồn trung nghĩa thiêng liêng.
[26] Bè bạn cùng làm quan.
[27] Dẹp yên giặc giã.
[28] Thân với nhà vua và có công to.
[29] Theo đòi.
[30] Màn quan tướng ở trong quân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đặng Đức Siêu » Văn tế phò mã chưởng hậu quân Võ Tánh và lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu