
瀟湘夜雨
菰蒲澤國四滄滄,
誰把琳瑯滴夜長。
乍過幽蘭啼楚客,
忽來暗竹泣娥皇。
蘋洲冷逼漁燈細,
蓬底秋驚旅鬢黃。
拂掠數峯猿樹外,
滄歌聲斷水茫茫。
Tiêu Tương dạ vũ
Cô bồ trạch quốc tứ thương thương,
Thuỳ bả lâm lang trích dạ trường.
Sạ quá u lan đề ,
Hốt lai ám trúc khấp .
Tần châu lãnh bức ngư đăng tế,
Bồng để thu kinh lữ mấn hoàng.
Phất lược sổ phong viên thụ ngoại,
thanh đoạn thuỷ mang mang.
Dịch nghĩa
Cỏ cao nước cả bốn bề xanh xanh,
Ai đem gieo hạt ngọc trong lúc đêm dài?
Trận mưa kia, khi chợt qua khóm lan tối tăm để than người khách Sở,
Khi vụt đến bụi trúc âm thầm để khóc nàng Nga Hoàng.
Bãi rau tần đầy khí lạnh, làm cho đèn chài phải lụi nhỏ,
Gốc cỏ bồng héo hắt vì hơi thu ghê rợn, làm cho mái tóc của người lữ thứ cũng phải điểm vàng.
Chợt thấy trên những ngọn núi cao có mấy con vượn chạy nhảy ngoài vòm cây,
Khúc ca Thương Lương dứt tiếng, mặt nước sông đã đầy mênh mông.
瀟湘夜雨
Tiêu Tương dạ vũ
Đêm mưa ở sông Tiêu Tương
菰蒲澤國四滄滄,
Cô bồ trạch quốc tứ thương thương,
Cỏ cao nước cả bốn bề xanh xanh,
誰把琳瑯滴夜長。
Thuỳ bả lâm lang trích dạ trường.
Ai đem gieo hạt ngọc trong lúc đêm dài?
乍過幽蘭啼楚客,
Sạ quá u lan đề Sở khách,
Trận mưa kia, khi chợt qua khóm lan tối tăm để than người khách Sở,
忽來暗竹泣娥皇。
Hốt lai ám trúc khấp Nga Hoàng.
Khi vụt đến bụi trúc âm thầm để khóc nàng Nga Hoàng.
蘋洲冷逼漁燈細,
Tần châu lãnh bức ngư đăng tế,
Bãi rau tần đầy khí lạnh, làm cho đèn chài phải lụi nhỏ,
蓬底秋驚旅鬢黃。
Bồng để thu kinh lữ mấn hoàng.
Gốc cỏ bồng héo hắt vì hơi thu ghê rợn, làm cho mái tóc của người lữ thứ cũng phải điểm vàng.
拂掠數峯猿樹外,
Phất lược sổ phong viên thụ ngoại,
Chợt thấy trên những ngọn núi cao có mấy con vượn chạy nhảy ngoài vòm cây,
滄歌聲斷水茫茫。
Thương ca thanh đoạn thuỷ mang mang.
Khúc ca Thương Lương dứt tiếng, mặt nước sông đã đầy mênh mông.
Tiêu Tương (
26.253,111.607): Là nơi hợp lưu của hai con sông Tiêu thuỷ 瀟水 và Tương thuỷ 湘水 (hay Tương giang 湘江) để chảy vào
hồ Động Đình, và cũng là tên vùng đất ở đây, thời xưa thuộc nước Sở, nay là trấn Tiêu Tương ở địa phận huyện Linh Lăng 零陵, tỉnh Hồ Nam 湖南, Trung Quốc. Sông Tiêu có tên khác là Doanh thuỷ 營水, phát nguyên từ núi Cửu Nghi, chảy đến Vĩnh Châu thì hợp lưu với sông Tương. Sông Tương phát nguyên ở huyện Hưng An, tỉnh Quảng Tây. Ở đây phong cảnh rất thê lương buồn bã, và có nhiều cảnh đẹp, thường được dùng làm đề tài cho thơ và hoạ, như Tiêu Tương bát cảnh 瀟湘八景.
Nơi đây thường là chỗ chia tay để mỗi người đi mỗi ngả, cho nên văn thơ thường dùng trong cảnh biệt ly. Nơi bờ sông Tương xưa kia hai bà vợ ông Thuấn đứng khóc chồng, nước mắt hoà máu rơi vào trúc thành những đốm thâm. Cho nên có chữ “giọt Tương” là giọt nước mắt, “khúc Tiêu Tương” là khúc đàn buồn về nỗi ly biệt.
Khúc sông Tiêu Tương liền với sông Mịch La là nơi Khuất Nguyên đã trầm mình.
[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Bình luận nhanh 1
Bạn đang bình luận với tư cách khách viếng thăm. Để có thể theo dõi và quản lý bình luận của mình, hãy đăng ký tài khoản / đăng nhập trước.