Trang trong tổng số 3 trang (21 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bài hát của đại phi công (Nam Trân): Xin sửa một dấu chấm nhỏ :)

Câu đề tặng: Tặng các anh em hội viên hội "Quảng Trị" Huế.

Nên sửa là "Hội Quảng Tri", Tri hay Trí = hiểu biết (知, 智), không phải hội "Quảng Trị" của những người quê ở Quảng Trị đâu.

Ảnh đại diện

Vãn cảnh (Mạc Đĩnh Chi): Bản dịch của Lôi Bất Chấn

Khí núi nổi mây cao
Hơi xuân sóng nước xao
Quạ kêu chiều ngả bóng
Nhạn gọi nước non nào
Lửa chài soi bến nhỏ
Tiều hát tiếng nghêu ngao
Khách đi đường mặt ủ
Mượn rượu lại phô đào!

Ảnh đại diện

Vạn Tuế lâu (Vương Xương Linh): Bản dịch của Lôi Bất Chấn

Sừng sững bên sông Vạn Tuế lầu.
Gió sương dầu dãi đã bao lâu.
Ngày ngày mải ngóng non trơ đó,
Tháng tháng buồn trông nước chảy đâu?
Khỉ vượn họp đàn bên núi vắng.
Vạc cò theo bạn dải bờ sâu.
Làm sao lên ngắm mây cùng khói.
Bóng ngả chiều hôm, khách luống sầu.

Ảnh đại diện

Thị tịch (Tịnh Giới thiền sư): góp ý

Nên phiên là “bát đấu”
謝靈運曰:“ 天下才有一石,曹子建獨占八斗,我得一斗,天下共分一斗 ”
Tạ Linh Vận viết :“ Thiên hạ tài hữu nhất thạch , Tào Tử Kiến độc chiếm bát đấu , ngã đắc nhất đấu , thiên hạ cộng phân nhất đấu ”
Tào Tử Kiến tức Tào Thực nổi tiếng « thất bộ thành thi ».

Ảnh đại diện

Tiền Xích Bích phú (Tô Thức): Hỏi lại

Bản phiên âm có vài chỗ chưa chuẩn:
s川相繆繆 : Tương mâu, không phải tương liễu, phần chữ hán thiếu chữ sơn
舳艫 : trục lô
Huống hồ: chỉ có huống, thừa chữ hồ
như bi : như bỉ
tắc thiên địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn: nhi thiên địa tằng bất năng nhất thuấn
tắc vật dữ ngã giai vô tận dã: "dữ" bản chữ Hán đánh là "ư", không rõ bên nào đúng ?

Ảnh đại diện

Thanh bình nhạc - Lục Bàn sơn (Mao Trạch Đông): Quật chỉ ?

Có lẽ phiên "quật chỉ" 掘指 thì đúng hơn , nguyên thủ bút Mao Trach Đông thì là chữ khuất 屈 , nhưng chữ đó có cả âm quật .
Thấy nó ở :
http://www.nx.xinhuanet.c...10/13/content_8253633.htm

Ảnh đại diện

Quá quận công Nguyễn Hữu Độ sinh từ hữu cảm (Nguyễn Khuyến): Thứ nhì là ai ?

Lão hủ nho này thì cho là câu "Thứ nhất quận công, thứ nhì ỉa đồng" cơ !

Ảnh đại diện

Hiếu trung hoài cổ phú (Võ Trường Toản): Xem lại tên

Bác Điệp Luyến Hoa có tài liệu thì tra lại giúp tên Võ Trường Toản, sao lại viết là 武長团  ?

Ảnh đại diện

Hiếu trung hoài cổ phú (Võ Trường Toản): Lôi Bất Chấn

(Lôi Bất Chấn xin sửa một số chữ theo cuốn "Văn học Nam Hà" của GS Nguyễn Văn Sâm - SG - 1972, vì không có bản Nôm gốc nên coi như dị bản cũng được)

Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo;
Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.

Cho hay vực thẳm nên cồn;
Khá biết gò cao hoá bể.

Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy [lâu đời];
Đò tạo hoá đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.

Nhấp [nhoáng] ngọn đèn trong kiếng;
Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông.

Đường Ngu ấp [tốn] rượu ba chung, [dường say dường] tỉnh;
Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.

Của có không nào khác [đám] mây;
Người tan hiệp dường như bọt nước.

Lánh non Thú cam bề ngạ tử hai con Cô Trúc đã về đâu ?
Luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san đà bặt dấu!

Mộng [tàn] nửa gối, bướm Trang Chu giấc hởi mơ màng;
Xuân [lụn] mấy canh, quyên Thục đế tiếng còn [khắc khoải].

Tha thiết bấy một gò hoàng nhưỡng, ngọc lấp hương chôn;
Ảo não thay! mấy cụm bạch vân, mưa sầu gió thảm.

Ngựa [trên] ải một may một rủi;
Hươu dưới Tần bên có bên không.

Hán Võ ngọc đường, người ngọc nọ xưa đà theo gió;
Thạch Sùng kim [cốc], của tiền xưa nay đã lấp sương.

Lao xao cõi trần ai, trường [hoan] lạc gẫm không mấy lúc;
[Thấm thoắt] cơn mộng ảo, đoạn biệt li há dễ bao lâu.

Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất;
Muôn dặm nước non Đường [thổ] võ, nước non còn đời ấy đâu còn.

Thương hỡi thương! huyền quản cung Tần, chim làm tổ [tiếng] kêu văng vẳng;
Tiếc [ôi] tiếc! y quan đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.

Cung Tuỳ xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa [rưới] luỵ;
Đài Ngô trước hươu nằm ngả ngớn, [đòi] ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.

Ô giang đêm thẳm [hé] trăng mành, quạnh quẽ [búa rìu] họ Hạng;
Cai Hạ ngày [chiều] hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu.

Đài vắng Nghiêm lăng, mấy khúc quanh co sông chảy tuyết;
Thuyền không Phạm Lãi, năm hồ lai láng nước ken mù.

Cho hay dời đổi ấy lẽ thường;
Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.

Luỵ rơi non Lịch, Đại Thuấn từng dời tính hai thân;
Sương lọt áo bô, Tử Khiên lại trọn niềm một thảo...

[Tông] khóc măng, Tường nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con;
Tích dấu quít, Cự chôn con, nắm nắm [tua] đền nghĩa mẹ.

Trước [đền] Trụ mổ gan một tấm, muôn kiếp còn danh để tạc bia;
Dưới thành Ngô treo mắt đôi tròng, nghìn năm hãy người đều nhởm gáy.

Tám trăm dặm xông pha ải [tuyết], thương họ Hàn chói lói lòng [đơn];
Mười chín [thu dầm nhuốm trời sương], cảm ông Võ phơ phơ đầu bạc.

Cật Võ Mục nhuộm [thâm] bốn chữ, tấm trung thành đã thấu trời xanh;
Áo Thiên Tường ghi đượm hai câu, phương tựu [nghĩa] chi phai lòng đỏ.

Trời [mỏn] đất già danh hỡi rạng, luỵ non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi;
Biển khô đá [rã] tiết nào phai, sử họ [] Mã chép còn tỏ rõ.


- Kim ốc cũng có nghĩa, nhưng ngu phu có đọc một bản Ca trù chữ Nôm cổ thì thấy cũng ghi là kim cốc.
- GS Sâm chú : Hiệu đính theo Hiếu trung hoài cổ vịnh - "Nông cổ mín đàm" số 87 ngày 9-07-1903 và "Quốc âm văn uyển" trang 106-107)
Ảnh đại diện

Như mộng lệnh (Tào Tuyết Cần): Bản dịch của Đại Hoang

Có phải nhung thêu tản rắc?
Rèm cuốn nửa chừng thơm sực.
Tay ngọc nhặt đem về,
Quyên khóc yến hờn cũng mặc.
Giữ chắc!
Giữ chắc!
Đừng để xuân đi nơi khác.

Trang trong tổng số 3 trang (21 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: